Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên
Chương 20 : Tháng năm Dung Thành
Ngày đăng: 08:45 19/04/20
Luôn ngỡ rằng, đô thị
được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên đường) - Thành Đô rất xa xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kỳ thực khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây còn được gọi là Dung
Thành, đó không phải mỹ nhân như hoa, xa tít tận tầng mây mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang, rơi tận sâu đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng trong những đường ngõ thơ mộng, chảy
trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm trên những cầu mái xây mộng.
Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa, mà nó lặng lẽ đậu
trên từng cành cây, ngâm trong từng ly trà. Tôi là cô gái giản dị đó,
nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm
nồng.
Đời người ngõ phố
Cắt một khoảng thời gian nhàn nhã, một mình, áo trắng phong trần, bước trong ngõ rộng, ngõ hẹp và ngõ
giếng[1] của Thành Đô, tựa như bước đi trong một hành lang dài thông
thẳng tới quá khứ. Trong ngõ không có sự nồng nhiệt như áo màu cưỡi
ngựa, mà có sự vui vẻ như hoa nở trên đường. Tháng năm đã chiếu những
chiếc bóng tối sáng khác nhau ở nơi này, đi dạo trong những con ngõ sâu
dài hun hút, tôi ngửi thấy mùi vị của thời gian, lắng nghe hơi thở của
ngày tháng. Ba con ngõ lát đá chứa đựng biết bao phong tục tập quán này
đã kết nối với muôn vàn linh hồn người Thành Đô. Trong đường đời như mây nước, sự tồn tại của nó là xiết bao tình sâu nghĩa nặng.
[1] Ngõ rộng, ngõ hẹp, ngõ giếng nằm trong Khu bảo tồn văn hóa lịch sử của thành phố Thành Đô.
(1) Ngõ rộng hẹp
Người ta nói thứ mà ngõ rộng hẹp chứng kiến chính là cuộc sống “nhàn tản” của Thành Đô xưa, cái mà nó tái hiện chính là ký ức của người hiện đại đối
với một thành thị. Mà ngõ rộng hẹp kể về cuộc sống “chậm rãi” của Thành
Đô xưa, cái nó phô bày chính là văn hóa sân nhà của Thành Đô. Khi tôi
giẫm chân lên ánh nắng mềm mại đi vào ngõ nhỏ, không khí nhàn tản và
nhịp điệu thong thả nơi này khiến tôi tưởng rằng năm tháng đã quên thay
đổi, câu chuyện vẫn còn dừng lại ở ngày hôm qua. Bất cứ cái quay người
hoặc ngoái nhìn nào đều khiến tôi lạc vào một hồi ức xa xôi nào đó của
Thành Đô xưa cũ. Tôi tin rằng, ngõ rộng hẹp chắc chắn là một áng thơ dân gian mà năm tháng cố tình để lại, khiến cho những người đã từng bỏ lỡ
và những người chưa từng gặp gỡ đều có thể có được sự thân thiết và tươi đẹp thanh thản này.
Trong ngõ không có đàn sáo huyên náo của thế giới phù hoa, mà là một khoảng khói bếp phố chợ bình dị. Tôi gần như có thể ngửi thấy hơi thở quen thuộc của phong tục dân tình đất Ba Thục từ
trong kẽ hở của con đường lát đá xanh này. Ngõ rộng, hẹp của Thành Đô,
tuy ở giữa chốn đô thị phồn hoa, nhưng vẫn giữa nguyên được kiến trúc
thời cuối Minh đầu Thanh. Ngói đen gạch xanh sạch sẽ, những cánh cửa, ô
cửa sổ kiểu cổ bằng gỗ, những hòn đá buộc ngựa bên mép tường cổ, những
quán trà già nua bên hè phố, cây ngô đồng rậm rì, những cảnh vật rõ ràng cổ kính ấy, cách sự ồn ào của thành thị một bức tường âm thanh, mà đã
thanh lọc hết thảy bụi bặm của trần thế thành trong sạch thanh tịnh. Mà
mộng xưa Ba Thục của nghìn năm trước, chỉ mất một sát na, là đã gặp gỡ ở thời nay.
Đi vào khách sạn Long Đường, đặt hành trang gọn nhẹ
của mình xuống, tôi liền cảm nhận được cảm giác vui sướng mà “thành phố
hạnh phúc nhất” này đem lại. Ở Thành Đô, có rất nhiều khách sạn đặc biệt nên thơ như thế này, níu chân biết bao giai khách gần xa đên từ khắp
trời nam đất bắc. Họ cũng giống như tôi, vội vã hối hả để đến với niềm
hạnh phúc thư thái của nơi đây. Đi trong ngõ rộng hẹp, ánh dương sáng
ngời lướt qua áo tôi, tựa như sẽ đem sức sống thanh xuân trên người tôi
truyền sang cho mỗi người. Còn tôi lại ngất ngây say đắm không khí phố
chợ nồng đậm nơi đây, từng quán trà gợi lại hết thảy hồi ức của các cụ
già, từng gương mặt cười thu hút tôi, khiến tôi muốn lập tức được chia
sẻ niềm vui của họ. Tôi tận tình “lượn lờ” qua hết mọi khung cảnh thảnh
thơi của ngõ nhỏ, cao đàm khoát luận với đủ mọi loại người, không cho
phép bản thân bỏ lỡ bất cứ cảm giác hạnh phúc nào.
Chọn một quán
trà ven đường để ngồi nghỉ, uống một ly trà ướp hoa phù dung. Nơi đây
hội tụ những người Thành Đô xưa và những người qua đường nhàn tản, hai
bên gặp gỡ chẳng hỏi nhau từ đâu đến, cũng chẳng hỏi bao giờ quay về.
Tôi mang theo tuổi trẻ và sự phồn hoa của thành thị, vô cớ xông vào con
ngõ cổ bình yên này, cùng họ tận hưởng sự yên tĩnh mà tháng ngày đem
lại, kể về những gió mây biến đổi ngày hôm qua của Thành Đô. Trên người
họ phảng phất một sự yên ả bẩm sinh, giữa chốn phố thị sương khói bao
trùm này, họ vẫn sống những ngày “tri túc thường lạc[2]”. Mùi vị của
trà, ngôn ngữ của nước, tôi hiểu được tâm ý của chúng. Có những duyên
phận chỉ cần một ly trà là đủ.
hội tụ đầy đủ cuộc sống thuần phác của dân chúng phố chợ, lại như một
bình trà xanh, được pha bằng những câu chuyện, đợi chờ người có duyên
dùng tâm thưởng thức.
Khi đến Cẩm Ly, lưng đeo tay nải rỗng
không, bởi vì tôi biết, sẽ có quá nhiều điều kinh ngạc và câu chuyện
hiện hữu ở nơi đây lấp đầy hành lý của tôi. Dạo bước trên ngõ phố đầy
hành lý của tôi. Dạo bước trên ngõ phố của Cẩm Lý, nếp sống của người
dân Xuyên Tây từ lâu đời ùa tới, chỉ trong tích tắc, tôi đã bị sự náo
nhiệt quen thuộc của nơi này chuốc say. Tựa như tôi có tính cách của
người Thành Đô, có tâm tình nhàn rỗi của người Thành Đô, hơn nữa có thể
cùng với họ hưởng thụ niềm hạnh phúc và sự ấm áp mà thành phố này mang
lại.
Một con phố cổ dẫn ra nguyên vị của cuộc sống phố thị, đi
xuyên qua nó, không cần suy nghĩ điều gì, chỉ cần hết lòng chìm đắm
trong giấc mộng đất Thục này, để tuổi xuân một lần nữa được buông thả
vui vẻ. Tôi của lúc này có thể tìm thấy câu chuyện của ngày hôm qua
trong phong cảnh sự vật của ngày hôm nay, lại có thể diễn lại truyền kỳ
của ngày hôm nay trong đáy sâu của ngày hôm qua.
Những đồ trang
sức thủ công muôn màu muôn vẻ trong các cửa tiệm không ngừng vẫy gọi tôi dừng chân, như một thứ ngôn ngữ không lời đang kể cho tôi nghe về văn
hóa phong tục của Xuyên Tây, vì bản thân chúng vốn là văn minh của Thục
Trung, là chuyện cũ của Thành Đô. Khiến tôi tình nguyện trả trước những
ngày tháng quý báu, giao phó tuổi hoa của mình, vì chúng mà ở lại. Trút
bỏ hành trang, quên mất mình là lữ khách, bước vào một quán trà phường
rượu nào đó, gọi một bình trà, ăn một bát mì thịt bò, ngồi mãi không
muốn đi. Không rời xa được tháng ngày tươi đẹp cổ kim đổi dời, không rời được cuộc đời nhàn nhã say tỉnh đan xen này. Mỗi một món đồ thủ công ở
đây đều khiến tôi lưu luyến, mỗi một món ăn đều khiến tôi nhớ mãi, mỗi
một gương mặt người, đều khiến tôi cảm động.
Cẩm Lý là một con
phố cổ thích hợp với việc hoài cổ, cũng là một địa điểm mà người nhã kẻ
tục có thể cùng thường ngoạn. Rất nhiều người đến đây có thể tìm lại ký
ức tươi đẹp, cũng có thể hưởng thụ cuộc sống chậm rãi, an nhàn giữa phố
thị sôi động xô bồ. Ánh dương luôn hiểu lòng người, nhìn thấu hết thảy
sự náo nhiệt của Cẩm Lý. Đứng trên phố nhìn những người thợ thủ công
quẩy gánh nặn tò he, mua súc vải gấm của đất Thục trong những cửa tiệm
sặc sỡ sắc màu, dưới khán đài xem một đoạn kịch có kỹ thuật đổi nét đặc
sắc. Tựa như mượn một súc vải thêu, vải gấm đất Thục là có thể dệt nên
sơn hà tráng lệ, nghe một đoạn kịch Xuyên là có thể diễn hết buồn vui ly hợp, uống một bát rượu cay là có thể gia nhập buổi kết nghĩa vườn đào.
Cẩm Lý chính là một con phố cổ đầy rẫy huyền thoại, rõ ràng đứng giữa
hồng trần phồn hoa, mà lại thản nhiên như nằm ngoài hồng trần.
Có người nói, đi loanh quanh ở Cẩm Lý của Thành Đô cũng giống như đi dạo ở Lệ Giang của Vân Nam, nhưng tôi lại cảm nhận được tục lệ thói quen giữa hai nơi này khác nhau hoàn toàn. Ở Cẩm Lý, điều khiến tôi kinh ngạc
nhất là kịch rối bóng. Tạo hình rối bóng sinh động, linh hoạt, những
hình vẽ tinh tế tỉ mỉ, động tác linh động, khéo léo, âm điệu tròn trịa
uyển chuyển, sức lôi cuốn của loại hình nghệ thuật cổ điển mộc mạc mà
tao nhã này tạo ra có thể khiến những mây gió đã chìm khuất lại nổi lên, khiến quá vãng đã lùi xa được tái hiện trở lại. Nó có thể khiến người
ta ôn lại những phong tục thuần phác của Xuyên Tây, tìm lại những niềm
vui giản đơn của tuổi thơ ấu. Tôi nhìn thấy người Thành Đô sống một cuộc đời vui vẻ sung sướng ở Cẩm Lý, đem những tâm nguyện tốt đẹp nhất hong
dưới ánh nắng ấp áp, đem những câu chuyện bình thường phản chiếu lại
trong một vở kịch rối bóng.
Kịch chưa kết thúc, ánh đèn vẫn sáng. Đứng trong phố cổ Cẩm Lý tràn ngập hơi thở của ngành kinh doanh, nhìn
ra xa chỉ có Vũ Hầu tự (miếu Vũ Hầu) sát ngay gần đó, lúc này đang im
lìm trầm mặc. Sự trầm mặc của nó, có phải là đang chờ đợi một câu chuyện ngàn thu ba lần đến nhà tranh khác hay không? Lưu Bị và Gia Cát Lượng
của năm đó, có phải vẫn còn đang ở thánh địa Tam Quốc, ngồi đối diện
nhau, gẩy đàn nâng chén hay không?
Cẩm Lý, bạn hãy nhìn hành
trang rỗng không này xem, nó đã bị lấp đầy bằng cuộc sống chân thực và
văn hóa lịch sử nơi đây. Mang theo những ký ức sinh động đầy ắp này, đủ
để nuôi dưỡng tâm tình một đời, và truyền cho một người khác. Hãy để họ
biết rằng, ở Cẩm Lý có một bức tranh “Thanh Minh thượng hà đồ” phiên bản Thành Đô hết sức thú vị.