Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên

Chương 3 : Bồ đề hoa nở hoa lại rụng

Ngày đăng: 08:44 19/04/20


Đều nói nhân gian là

sân khấu, những chúng sinh đi xuyên qua hồng trần, mỗi ngày đều bận rộn

diễn một vở kịch gọi là cuộc sống, đi qua biết bao cây cầu, nhìn qua vô

số mây bay, kinh qua trăm ngàn lần tụ tán, rồi một ngày, liệu có cần gỡ

bỏ trang sức đời người, trở lại với bản ngã thuần khiết thanh tịnh hay

không? Dưới gốc bồ đề bình thản tu hành, ngắm núi xanh che mặt trời,

nước biếc không gợn sóng.



Bốn mùa luân chuyển, những vách đá có

cây đã trải qua ngàn vạn năm đó, cũng chẳng tránh nổi vòng luân hồi

tháng năm. Kỳ thực, tất cả con người đều có lựa chọn của riêng mình, mỗi một bến đỗ đều là bản thân cam tâm tình nguyện dừng lại, nhân quả chưa

từng nợ chúng ta điều gì, chúng ta cũng không có lý do gì để oán trách.

Tu hành là một vị thuốc, vị thuốc này có thể biến kẻ ngu muội thành

người thông tuệ, khiến kẻ say sưa thành người tỉnh táo, khiến kẻ cuồng

si sớm được giác ngộ. Vì vậy chúng sinh nên lập tức cắt bỏ trần duyên,

đoạn tuyệt nợ nần, mang hành trang gọn nhẹ lên đường, đi tìm hoa bồ đề

nở đã từng thấy trong giấc mộng.



Tất cả của ngày hôm qua đều là

chuyện cũ xa xưa, trút bỏ mớ trang sức thời gian, ung dung bước ra khỏi

thế giới phù hoa, tâm hồn trong vắt như nước. Từ đó về sau, thuyền chài

xướng hoạ, thưởng trăng buông cần, mặc kệ hoa lau như tuyết, mây khói

bao trùm. Dưới gốc cây bồ đề, cỏ bồ vẫn như xưa, đây là một đạo tràng từ bi, vạn vật sinh linh trên thế gian đều có thể tu hành tại đây, chẳng

hề phân biệt. Những câu chuyện đã từng mơ hồ, nay bắt đầu sáng tỏ, những tình cảm đã từng mông lung vô định, nay cũng đã chấp nhận bỏ qua.



Tu hành là một sự siêu thoát tự do mà thanh cao. Cái gọi là đi đến nơi sơn cùng thuỷ tận, ngồi ngắm mây bay, chính là cảnh giới của tu Thiền. Cũng có nghĩa là tìm được vẻ đẹp giản đơn giữa thiên nhiên non nước trong lộ trình nhân sinh vốn quanh co gập ghềnh. Chứng ngộ thực sự, không chỉ là có được sự yên ổn giữa lúc nóng vội, cũng có được sự giải thoát từ

trong nỗi cô đơn; không chỉ là phóng thích sự nhiệt tình, mà còn làm

bình ổn sự lạnh lùng. Điều chúng ta cần, không phải là khiến bản thân

chuyên tâm tu luyện, lĩnh hội sâu sắc như thế nào, mà là phải loại bỏ

phồn tạp giữ lại giản đơn, ung dung tự tại.



Năm đó Lục Tổ Huệ

Năng từng có bài kệ rằng: “Bồ đề vốn không cây, gương sáng chẳng phải

đài. Vốn không phải một vật, chỗ nào bám bụi bặm?” Lục Tổ đang điểm hoá

chúng sinh, tất cả sự vật trên thế gian đều là hư ảo. Có người nói, tu

hành như thế nào mới có thể quên sạch mọi thứ của kiếp trước, thanh thản sống ở kiếp này. Vừa không phải tiêu cực trốn tránh, vừa không phải khó khăn chọn lựa, là đã có thể xoá sạch quá khứ rồi.



Uống một chén

canh Mạnh Bà, như thế có thực sự xoá bỏ được mọi ký ức, lãng quên mọi

yêu hận vui buồn hay không? Có lẽ bản nghĩa của canh Mạnh Bà không phải

là khiến mỗi con người dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, mà là hy vọng

mỗi con người có thể tẩy rửa hành trang phù phiếm trên mình. Từ đây cáo

biệt hoa cỏ tầm thường của hồng trần, được phục sinh dưới gốc cây bồ đề. Vậy hãy qua đò như Thế Âmà đi, rời khỏi cây cầu đơn sóng nhỏ, mây biếc

liễu xanh, ở bờ bên kia của mặt sông soi bóng bầu trời bao la, tìm được

đoá hoa bồ đề thuần khiết.



Những điều đã nói đó, những người đồng sinh cộng tử chốn nhân gian đó, cuối cùng chỉ còn lại một nụ cười cáo

biệt nhau, cùng lãng quên nhau trên chốn giang hồ. Có lẽ một ngày nào đó trên con đường cầu Phật, sẽ lần nữa trùng phùng, nhưng những lời thề

non hẹn biển của ngày hôm qua đã sớm bị lãng quên, ai vui chuyện người

nấy. Dưới gốc cây bồ đề, biết bao sinh mệnh ngu ngơ chậm chạp đều có thể được đốn ngộ. Họ bắt đầu tôn trọng mỗi loại sinh linh, bắt đầu tin rằng hết thảy mọi thứ trên đời đều là tự nhiên, không một chút cưỡng cầu.



Lưng đeo hành trang Thiền là bước ra khỏi nơi phàm trần sâu thẳm nhất, núi

xanh làm màn, nước chảy làm giường. Một mình buông câu trên sông Tuyết

là ta, chặt củi ở núi Nam là ta, dạo bước trong mây là ta, gối đầu lên

đá tảng cũng là ta. Chỉ có đồng hành cùng tự nhiên, mới có thể không bận tâm đến năm năm tháng tháng, để mặc bóng câu qua cửa, nội tâm như giếng cổ không gợn sóng. Nếu như lạc lối chốn đồng hoang hay say ngã trước

rừng phong, chỉ cần tìm được một gốc bồ đề là tìm được chốn về. Giữ một

khoảng trời tinh khiết, cảm nhận tự nhiên, ngắm nhìn vầng dương lặn,
vô tội. Có lẽ bởi vì hoa sen có Phật tính và sự thanh khiết đặc biệt,

khiến chúng sinh vừa nhìn đã say mê, cho nên họ cầu nguyện, đời này có

thể làm một đoá sen xanh trước Phật, cô độc đếm những ngày tháng tĩnh

lặng tuyệt mỹ, trăng khuyết rồi trăng lại tròn.



Có lẽ chúng sinh

không hiểu, tại sao cây sen xanh đó kinh qua bao bãi bể hoá nương dâu,

vẫn có thể không hẹn mà gặp ở mùa hoa, hơn nữa vĩnh viễn gió nhạt mây

nhàn như thế, không hề bận tâm. Người tu hành giống như hoa sen, rũ bỏ

hết phù hoa, an nhiên mà nở, tự tại mà rụng. Ngồi trên nệm bồ đoàn, độ

cho hết thảy những người có thể độ.



Lý Cao đời Đường viết một bài thơ hỏi về đạo[21] rằng: “Luyện đắc thân hình tự hạc hình, thiên chu

tùng hạ lưỡng hàm kinh. Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết, vân tại thanh

thiên thuỷ tại bình.” (Luyện được hình như thân hạc, dưới ngàn gốc tùng

hai hòm kinh. Tôi đến hỏi đạo ngài chỉ nói, mây ở trời xanh nước ở

hình). Sự tồn tại của Thiền, chính là tự nhiên như thế, như mây trắng

trên trời, như tịnh thuỷ trong bình, rõ ràng trong sáng, giản đơn thuần

phác. Vạn vật nhân gian luôn hướng tới Thiền, người tư thiền, chẳng chia sang hèn, chẳng màng thâm sâu, chỉ cần có một trái tim thuần khiết

hướng đạo.



[21] Bài “Tặng Dược sơn cao tăng Duy Nghiễm”, bài số một.



Vầng trăng bồ đề treo ngoài cửa sổ, đoá sen diệu tâm tĩnh lặng trong nước.

Năm tháng như tuyết, đun trên lửa lò, hết thảy bi hoan đều bị bốc hơi,

chừa lại thứ nước tinh khiết trong vắt cho chúng sinh thưởng thức. Thiền có thể trị thương, có thể giải độc, có thể mang ngọn gió đến cho người

ao ước sự mát lành, đem ánh nắng đến cho người chờ đợi sự ấm áp. Vĩnh

viễn không cần thiền tâm của một người hoài nghi, cũng vĩnh viễn không

cần hỏi nên tu thiền như thế nào, bởi vì thiền là nước chảy mây trôi, là tự tại an nhiên.



Phật nói, cực lạc của kiếp này chính là hoá

sinh thành liên hoa trong Thất bảo trì[22]. Mỗi một người là một đoá

tịnh liên, nếu tư chất tốt, sẽ nở sớm một chút, nếu ngộ tính kém cỏi, sẽ nở muộn một chút. Cùng trên con đường tu hành, cho dù là Thiền định

sóng cả chẳng kinh, hay là khổ hạnh dầm sương dãi gió, chốn về, cũng đều giống nhau. Dù hoá thần vạn triệu lần, cũng chìm đắm trong Công Đức

thuỷ[23] đợi một lần gặp duyên mà bừng nở.



[22] Thất Bảo trì:

Thuật ngữ Phật giáo, chỉ đầm hoa sen do bảy bảo vật tạo thành ở tịnh thổ Tây phương, những người đầu sinh nơi tịnh thổ sẽ được hoá thành hoa sen trong đầm này.



[23] Công Đức Thuỷ: Tức bát nước Công Đức. Trong

thế giới Tây phương cực lạc của Phật giáo, nơi nơi đều có Thất Diệu Bảo

trì, Bát Công Đức thuỷ chày đầy trong đó. Nước này tinh khiết, lạnh

buốt, ngọt lịm, mềm dịu, trơn nhuận, an hoà, khi uống ngoài giải khát,

còn có thể tăng thêm thiện lương.



“Kinh Kim Cương” viết: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng, kiến chư tướng phi tướng, tắc kiến Như

Lai.” ( Phàm là cái gì có tướng, đều là hư dối, thấy mọi thứ có tướng mà lại không phải tướng, tức là thấy Phật). Có nghĩa là cảnh giới của

Thiền, cho dù quá trình như thế nào, non nước trùng lặp hay là ngàn vách đá vạn khe sâu, đến cuối cùng, vạn dòng đồng tôn, vạn pháp quy nhất.

Cho nên, trong mỗi một ngày tu hành, không cần trèo đèo lội suối, chỉ

cần hiện tại an ổn, an nhiên nhìn mưa phùn gió nhẹ, mây đến mây đi bên

ngoài cửa sổ mà thôi.



Xuyên qua rừng cây nhân sinh gai góc dày

đặc, phía trước đã là đồng bằng thẳng cánh, trời cao bể rộng. Buông bỏ

chấp ngã, tuỳ duyên tự tại. Kiếp sau nguyện hoá thành đài sen, ngồi dưới thân Di Đà nghe kinh. Dùng tâm từ bi bồ đề, độ chúng sinh như hoa sen.