Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên

Chương 7 : Tương phùng Huệ Sơn

Ngày đăng: 08:44 19/04/20


Khi đến, đã biết số phận định là cô độc. Không có dáng vẻ vội vã, không có

tâm tình buồn vui, trong ban mai của buổi chớm thu, chỉ bình thản đi lại như thế. Là duyên phận dẫn dắt, hay là số mệnh an bài, đều không quan

trọng. Đến Huệ Sơn, sẽ tìm kiếm những gì? Là bóng dáng dần nhạt nhòa của vương triều thời cổ, thiên hạ đệ nhị tuyền nức danh trong trường đình

biệt viện, cổ sát Giang Nam giữa chốn non xanh thâm u, hay là vườn cảnh

cổ xưa quanh co lắt léo? Non nước tú lệ của vùng Huệ Sơn Vô Tích có thể

nói cho chúng ta những điều gì?



(1) Thiên hạ đệ nhị tuyền



Cơn gió thuở chớm thu đã se sắt hơi lạnh, thỉnh thoảng lá rụng lác đác bay

lả tả, người đi chầm chậm thả bước trên đường, nhưng không hề cảm thấy

tiêu điều.



Một tia nắng đã khiến tâm tình dễ chịu hơn, thử đi tìm một nơi có nước chảy, đi tìm tiên sinh mù kéo nhị hồ A Bỉnh[14] năm xưa.



[14] A Bỉnh tiên sinh: tên thật là Hoa Ngạn Quân, nhạc sĩ dân gian, đồng

thời là đạo sĩ. Vì mắc bệnh nên mắt bị mù, ông khổ công nghiên cứu âm

nhạc Đạo giáo, không ngừng nâng cao, và hấp thu rộng rãi các làn điệu âm nhạc dân gian, cả đời tổng cộng sáng tác và diễn tấu hơn 270 khúc nhạc

dân gian. Hiện còn bảo tồn được sáu bài, gồm: “Nhị Tuyền ánh nguyệt”,

“Thính tùng”, “Xuân hàn phong khúc” (nhị hồ) và “Đại Lãng đào sa”, “Long thuyền”, “Chiêu Quân xuất tái” (tì bà).



Nhị Tuyền, dường như mọi thứ ở nơi đây đều liên quan đến suối mát trong lành.



Con đường nhỏ lát đá xanh, cho dù đã in dấu chân của biết bao người đi, vẫn cổ kính rêu xanh. Sàn đá nơi này dường như vĩnh viễn mang dấu ấn ẩm

ướt, những quá khứ không thể xóa nhòa đó vẫn trong trẻo như xưa giữa

dòng năm tháng già nua.



Hành lang dài quanh co tọa lạc giữa đầm,

một cơn gió nhè nhẹ thổi qua. Dựa lan can ngắm hoa sen, những cánh hoa

tàn tạ, đài sen căng đầy nuôi những hạt sen non, khiến người ta cảm nhận được một niềm vui sướng của sự thu hoạch. Nhà thơ thời Đường Lý Thương

Ấn có thơ rằng: “Lưu đắc tàn hà thính vũ thanh.” (Giữ được sen tàn nghe

tiếng mưa) Cỏ cây chốn nhân gian, khô héo là chuyện thường. Ngàn vạn sự

vật nơi thế gian đều là phong cảnh, chỉ là tâm trạng khi ngắm cảnh khác

nhau mà thôi.



Hai cánh cửa lớn màu vàng sẫm mở ra chào du khách,


Phật nói, quay đầu là bờ, không biết có phải tất cả trường hợp quay đầu đều có thuyền bè đợi chờ, chuyên chở chúng

sinh sang bờ bên kia sen nở hay không? Lần tìm theo con đường cũ, lại

qua một tầng cửa đá nữa. Một cây ngân hạnh cổ thụ có niên đại hơn sáu

trăm năm tọa lạc trước miếu, kể cho khách đến chuyện cũ tang thương của

nó. Nghe nói năm xưa, được một tiểu sa di trong chùa trồng, tên của

người ấy đã bị xóa nhòa theo năm tháng thời gian, không ai hay biết. Mà

cây ngân hạnh này lại trường tồn ngàn năm, lá vàng rụng xuống lá xanh

mọc chồi, không màng đến ngày hôm qua.



Trên thế gian thực sự có

cuộc sống vĩnh hằng không? Thế nhân biến chuyển, sớm đã thay đổi hoàn

toàn, nhưng núi đá cỏ cây dường như vẫn giữ nguyên hiện trạng. Thế sự vô thường, không biết tòa cổ sát nghìn năm này có thể gánh được sương gió

của bao nhiêu năm? Phật nói, tùy duyên tự tại, cho dù có một ngày trùng

phùng hay không, đều không quan trọng.



Một tấm ngự bi[17] cao

chót vót, trên đó khắc câu thơ năm xưa Càn Long ngâm vịnh khi du ngoạn

chùa Huệ Sơn. Vị hoàng đế nhàn nhã đa tình này đã từng nhiều lần xuống

Giang Nam, quyến luyến vùng bảo địa non nước linh thiêng này, không nỡ

rời xa. Bỗng nhiên, tựa như nhìn thấy bóng dáng của vị đế vương ung dung tài hoa tôn quý này. Tài tử áo gầm xòe quạt, phong lưu phóng khoáng ấy

là Càn Long sao? Ngài ra khỏi cung điện dát vàng khảm ngọc, tới Giang

Nam, đây có phải giấc mộng mà ngài lạc mất hay không?



[17] Ngự bi: Bia đá do hoàng đế ban tặng.



Chúng sinh bình đẳng trước Phật, cho dù là đế vương khanh tướng hay là bình

dân phố chợ, ly hoan bi hợp đều như nhau. Có một ngày, nguyện cho chúng

sinh đều có thể hóa thân thành hoa sen, ngồi dưới núi Tu Di[18], nghe

thiền đọc kinh, bình hòa yên ổn.



[5] Tu Di là tên của một ngọn

núi trong truyền thuyết cổ Ấn Độ, còn gọi là Tu Di Lâu, Mạn Đà La. Theo

quan niệm Phật giáo, núi Tu Di là vua của các ngọn núi, là trung tâm của thế giới, là vũ trụ quan của Phật giáo.