Percy Jackson Tập 2: Biển Quái Vật
Chương 10 : Chúng tôi đi nhờ tàu của quân liên minh
Ngày đăng: 18:08 19/04/20
“Cái bình!” tôi thét lên khi chúng tôi lao vào nước.
“Cái gì cơ?” Annabeth hẳn nghĩ rằng tôi bị mất trí. Cô ấy đang cố sống cố chết giữ chặt dây thuyền. Tóc cô ấy dựng đứng như ngọn đuốc.
Nhưng Tyson thì hiểu. Cậu ấy tìm cách để mở cái túi của tôi và lấy ra cái bình ma thuật của thần Hermes mà vẫn ghì chặt được chiếc túi và con thuyền.
Các mũi tên và lao vẫn phóng vun vút trên đầu chúng tôi.
Tôi chộp lấp cái bình và hy vọng mình làm đúng. “Giữ chặt nhé!”
“Tớ đang làm đây!” Annabeth kêu lên.
“Chặt hơn nữa!”
Tôi móc chân vào dưới cái ghế có thể thổi phồng trong thuyền và khi Tyson túm chặt phía sau áo của tôi và Annabeth, tôi xoay nắp chiếc bình góc một phần tư.
Ngay lập tức một làn gió nhẹ màu trắng bay ra khỏi cái bình và đẩy chúng tôi dạt sang một bên, rồi đưa chúng tôi trở xuống với cú hạ cánh bốn mươi lăm độ.
Tôi dường như nghe được tiếng cười của ngọn gió khi nó được bắn ra khỏi bình, như thể nó vui sướng vì được tự do. Khi chúng tôi đáp xuống mặt biển, chúng tôi lại nảy lên một lần, hai lần nữa như một hòn đá. Rồi chúng tôi lướt vèo như một con tàu cao tốc, nước biển bắn đầy mặt, chúng tôi tiếp tục lao về phía trước và không có gì ngăn cản, chỉ có nước biển phía trước.
Tôi nghe thấy những tiếng oán hận vang lên từ con tàu phía sau chúng tôi, nhưng chúng tôi đã thoát ra ngoài tầm vũ khí tấn công. Con tàu Công chúa Andromeda dần biến thành kích cỡ của một chiếc tàu đồ chơi màu trắng và sau đó biến mất.
Khi chúng tôi phi như bay qua biển, Annabeth và tôi cố gắng gửi một thông điệp Iris cho bác Chiron. Chúng tôi cho rằng nó rất quan trọng khi chúng tôi báo cho ai đó biết về việc Luke đang làm và chúng tôi không biết phải tin ai.
Ngọn gió từ chiếc bình làm bắn lên những hạt nước biển tuyệt đẹp, tạo nên cầu vồng trong ánh nắng – thật hoàn hảo cho một thông điệp Iris – nhưng việc kết nối của chúng tôi vẫn rất kém. Khi Annabeth ném một đồng drachma vàng vào sương mù và cầu nguyện nữ thần cầu vồng cho chúng tôi thấy bác Chiron, khuôn mặt bác đã hiện ra ngay lập tức. Nhưng có thứ ánh đèn lấp lóe rất kinh khủng cứ chớp phía sau và tiếng nhạc Rock ồn ã như thể bác ấy đang ở trong một câu lạc bộ khiêu vũ.
Chúng tôi kể với bác ấy về việc trốn ra khỏi trại. về Luke, về con tàu Công chúa Andromeda, về chiếc quách vàng có chứa hài cốt của Kronos. Nhưng trong tiếng ồn ào nơi bác ấy đang đứng, tiếng gió và tiếng sóng nước ở chỗ chúng tôi, tôi không chắc bác ấy nghe được bao nhiêu.
“Percy.” Bác Chiron kêu lên. “cháu phải coi chừng…”
Tiếng bác ấy bị nhận chìm bởi tiếng gào inh ỏi ngay sau lưng – một loạt tiếng reo hò như các chiến binh Comanche.
“Gì ạ?” Tôi hét lên.
“Nguyền rủa lũ họ hàng của ta!” bác Chiron thụp nhanh xuống để tránh một chiếc đĩa bay vào qua đầu và nó vỡ tan ở đâu đó. “Annabeth, cháu không nên để Percy rời trại! Nhưng nếu cháu có được Bộ Lông Cừu Vàng…”
“Ôi, bé yêu!” ai đó kêu toáng lên phía sau lưng bác Chiron. “Woo-hoooo!”
Tiếng nhạc được mở to hơn và tiếng phát ra từ loa siêu trầm quá lớn đến nỗi thuyền chúng tôi bị rung lên.
“…Miami.” Chiron kêu to. “Ta sẽ cố dõi theo…”
Màn hình mờ mờ của chúng tôi đã bị vơ ra như thể ai đó đứng bên cạnh đã ném một cái chai vào đó và bác Chiron biến mất.
Một giờ đồng hồ sau, chúng tôi nhìn thấy đất liền – một dãy biển trải dài được đánh dấu bởi những khách sạn cao tầng. Mặt nước đã chật kín thuyền đánh cá và tàu chở dầu. Một con tàu tuần tiễu bờ biển đi ngang qua bên hông con thuyền chúng tôi, rồi quay lại như muốn quan sát đôi chút. Tôi đoán rằng không phải ngày nào họ cũng nhìn thấy một con thuyền cứu sinh một vàng không động cơ, đi một trăm hải lý một giờ, được điều khiển bởi ba đứa nhóc.
“Đó là Virginia Beach!” Annabeth reo lên khi chúng tôi cập bến. “Ôi chúa ơi, làm thế nào mà con tàu Công chúa Andromeda trong một đêm lại có thể đi xa đến thế nhỉ? Nó giống như…”
“Năm trăm ba mươi hải lý,” tôi tiếp lời.
Cô ấy nhìn tôi chằm chằm. “Làm thế nào mà cậu biết vậy?”
“Tớ… tớ không chắc lắm.”
Annabeth suy nghĩ trong giây lát. “Percy, vậy vị trí của chúng ta là gì?”
“Ba mươi sáu độ, bốn mươi tư phút Bắc, bảy mươi sáu độ, hai phút Tây.” tôi đáp ngay tức thì, rồi lắc đầu. “Ôi trời, mình biết được điều này như thế nào nhỉ?”
“Vì do cha cậu đấy,” Annabeth gợi ý. “Khi cậu ở biển, cậu có thể xác định rõ phương hướng một cách chuẩn xác. Điều đó quá tuyệt.”
Tôi đã không dám chắc chắn về điều này. Tôi không muốn trở thành một thiết bị GPS người. Nhưng trước khi tôi có thể nói được điều gì, Tyson vỗ nhẹ vào vai tôi. “Một con thuyền khác đang tới.”
Một cái đầu nó thử đớp lấy tôi. Không cần suy nghĩ tôi vung thanh kiếm lên.
“Đừng làm thế!” Annabeth hét lên.
Muộn rồi. Tôi đã chém bay cái đầu của Hydra. Nó lăn vào một bãi cỏ, để lại phần cổ đung đưa qua về, và rồi nó đột nhiên ngừng chảy máu, bắt đầu phình to như một quả bóng.
Trong khoảng một vài giây, cái cổ bị thương được tách làm hai, mỗi cái có một cái đầu to hoàn chỉnh. Gopwf đây tôi đang nhìn một con Hydra có tới tám cái đầu.
“Percy!” Annabeth gắt gỏng. “Cậu vừa mới mở thêm một tiệm bánh Donut Quái Vật ở nơi nào đấy!”
Tôi tránh một luồng acid. “Tớ thì sắp chết và cậu chỉ lo lắng về điều đó thôi sao? Chúng ta phải giết nó bằng cách nào?”
“Lửa!” Annabeth quát lên. “Chúng ta phải có lửa!”
Khi cô ấy vừa nói tới đó, tôi đã nhớ ra ngay chuyện. Đầu của Hydra chỉ có thể ngừng nhân đôi nếu chúng tôi đốt phần cổ trước khi nó mọc lại. Dù sao đó cũng là điều mà Heracles đã từng làm. Nhưng chúng tôi không có lửa.
Tôi đi lùi lại về phía dòng sông. Con Hydra đuổi theo.
Annabeth di chuyển về phía trái của tôi và ra sức làm rối trí một cái đầu Hydra, tránh hàm răng của nó bằng con dao của cô ấy. Một cái đầu khác như một cái dùi cui lao tới từ hướng khác hất cô ấy ngã nhào vào một đống chất nhầy.
“Không đánh các bạn của ta!” Tyson lao lên tấn công, đứng chắn giữa Hydra và Annabeth. Khi Annabeth đứng lên được, Tyson bắt đầu đấm mạnh vào những cái đầu của con quái vào với những nắm đấm nhanh tới nỗi chúng khiến tôi nhớ tới trò chơi đập chuột ở các cột máy chơi game. Nhưng ngay cả Tyson cũng không thể chống đỡ Hydra mãi mãi.
Chúng tôi tiếp tục lùi lại sau từng chút một, tránh những cũng acid và làm lệch hướng những cái đầu đang táp xuống mà không cần phải chém đứt chúng, nhưng tôi biết chúng tôi đang trì hoãn cái chết của chính mình. Cuối cùng chúng tôi sẽ mắc sai lầm và con vật này sẽ giết chết chúng tôi.
Rồi tôi nghe thấy một âm thanh lạ - là tiếng bình bịch, bình bịch, bình bịch mà thoạt đầu tôi cứ ngỡ là tiếng đập của trái tim tôi. Tiếng bình bịch đó lớn tới mức cả hai bờ sông làm rung cả lên.
“Tiếng gì thế?” Annabeth gào bên, mắt vẫn dán chặt vào con Hydra.
“Động cơ hơi nước,” Tyson đáp.
“Cái gì?” Tôi cúi thụp xuống, tránh một dòng acid do Hydra phun qua đầu tôi.
Rồi từ phía con sông đằng sau chúng tôi, một giọng nữ quen thuộc hét to. “Đây rồi, hãy chuẩn bị loại đại bác bắn đạn ba mươi hai pound!”
Tôi không dám rời mắt khỏi Hydra, nhưng nếu đó là người mà tôi nghĩ tới ở ngay sau chúng tôi, thì tôi đoán rằng giờ đây chúng tôi đã có kẻ thù từ cả hai phía.
Một giọng đàn ông lục cục đáp, “Họ ở quá gần, thưa quý cô!”
“Lũ anh hùng chết tiệt!” cô gái nói. “Tăng tốc lên nào!”
“Rõ, thưa quý cô!”
“Nhắm thẳng bắn, Thuyền trưởng!”
Annabeth hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra chỉ một phần giây trước khi tôi kịp nhận ra. Cô ấy hét lên, “Nằm xuống!” và chúng tôi lao ngay xuống mặt đất khi một tiếng BÙM lở đất vọng lại từ phía sông. Đó là một thứ ánh sáng lóe lên, một cột khói cuồn cuộn và con Hydra nổ tung ngay trước mắt chúng tôi, trút lên người chúng tôi vô số chất lỏng màu xanh kinh tởm – những thứ này bốc hơi ngay khi chạm vào chúng tôi. Đó là cách thức mà mỗi con quái vật biến mất sau khi bị tiêu diệt.
“Kinh quá!” Annabeth la toáng lên.
“Tàu thủy chạy bằng hơi nước kìa!” Tyson la lên.
Tôi đứng dậy, hung hắng ho bởi đám khói thuốc sung đang dâng lên cuồn cuộn từ bờ sông.
Tiếng bình bịch tiến về phía chúng tôi phía dưới con sông được phát ra từ một con tàu kỳ lạ nhất mà tôi từng gặp. Nó lướt đi thấp bên dưới mặt nước như một tàu ngầm. Boong tàu được bọc bằng sát. Ở giữa là một hầm cuốn hình thang với những chốt trục dành cho súng thần công ở hai bên. Một lá cờ phấp phới trên đỉnh có hình một con lợn rừng và một ngọn giáo trên nền vải màu đỏ tươi. Đứng quanh boong tàu là các thây ma trong các bộ đồng phục màu xám – những người lính đã chết với gương mặt mờ mờ chỉ choán một phần sọ của chúng, giống như những con ma cà rồng canh giữ lâu đài của thần Hades khi tôi được nhìn thấy dưới m phủ.
Cả con tàu được bọc sắt. Một chiến hạm của cuộc Nội chiến. Tôi có thể đọc ra được cái tên những kí tự phủ rêu của nó dọc mũi tàu: C.S.S Birmingham.
Và đứng bên khẩu đại bác còn tỏa khói là người gần như đã suýt giết chúng tôi – Clarisse trong bộ áo giáp hoàn chỉnh dung trong các trận chiến của người Hy Lạp.
“Đồ thua cuộc!” cô ta cười nhạo. “Nhưng tớ cho rằng tớ phải cứu các cậu. Lên tàu đi!”