Percy Jackson Tập 2: Biển Quái Vật
Chương 14 : Chúng tôi gặp con cừu của số phận
Ngày đăng: 18:08 19/04/20
Khi bạn nghĩ về “đảo quái vật”, bạn sẽ nghĩ ngay tới những dãy đá lởm chởm và xương rải đầy trên bờ biển giống như đảo của Ba chị em nhà Siren vậy.
Nhưng đảo của Cyclops lại không có gì giống như vậy. Ý tôi là, được rồi, nó có một cây cầu bằng dây thừng băng ngang qua vực thẳm, đó không phải là một dấu hiệu tốt. Bạn có thể dựng một tấm bảng có dòng chứ, CÓ CÁI GÌ ĐÓ XẤU XA ĐANG SỐNG Ở ĐY. Nhưng trừ việc đó ra nơi này nom rất giống một tấm bưu thiệp về vùng biển Caribean. Nó có những cánh đồng xanh mướt, những hàng cây nhiệt đới và những bãi biển trắng tinh khôi. Khi chúng tôi chèo về phía bờ biển, Annabeth hít căng không khí trong lành. “Bộ Lông Cừu Vàng,” cô ấy thốt lên.
Tôi gật đầu. Tôi chưa từng nhìn thấy Bộ Lông Cừu Vàng bao giờ nhưng tôi có thể cảm nhận được sức mạnh của nó. Tôi có thể tin rằng nó sẽ chữa lành bất cứ thứ gì, thậm chí cả cái cây bị đầu độc của Thalia. “Nếu chúng ta lấy nó đi, hòn đảo này sẽ chết phải không?”
Annabeth lắc đầu. “Nó sẽ mất dần đi thôi. Quay lại trạng thái ban đầu của nó.”
Tôi thấy hơi có lỗi khi làm hỏng thiên đường này nhưng tôi tự nhắc nhở rằng chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Trại Con Lai đang gặp rắc rối. Và Tyson... Tyson vẫn sẽ ở bên chúng tôi nếu đó không có cuộc tìm kiếm này.
Trên bãi cỏ dưới khe núi, vài tá cừu đang gặm cỏ. Nom chúng rất thanh thản. Nhưng chúng quá to lớn – có kích thước của một con hà mã. Chỉ cần vượt qua chúng là có một con đường mòn dẫn thẳng vào trong những quả đồi. Phía trên cùng con đường, gần gờ của hẻm núi là một cái cây sồi to lớn mà tôi đã nhìn thấy trong các giấc mơ. Có thứ gì đó tỏa sáng lấp lánh trên các cành cây của nó.
“Điều này thật quá dễ dàng,” tôi nói. “Chúng ta chỉ cần leo lên và lấy nó đi.”
Mắt của Annabeth nheo lại. “Chắc chắn là có người canh đấy. Một con rồng hoặc...”
Bỗng nhiên một con nai xuất hiện từ những bụi cây. Nó chạy từng bước ngắn vào đồng cỏ, nhằm tìm kiếm thức ăn, và tất cả lũ cừu đồng loạt kêu be be, sau đó đổ xô về phía con vật. Việc đó xảy ra quá nhanh khiến con nai ngần ngừ và mất hút trong một biển len và móng giầy xéo.
Cỏ và những búi lông bay trong không khí.
Một giây sau, tất cả lũ cừu bỏ đi, trở lại với việc đi thơ thẩn đầy thanh thản thường ngày. Nơi chú nai đứng đó chỉ là một đống xương trắng.
Annabeth và tôi nhìn nhau.
“Chúng giống lũ cá piranhas ấy nhỉ,” cô ấy cất tiếng.
“Piranhas có lông. Chúng ta sẽ...”
“Percy!” Annabeth hổn hển nói, túm chặt lấy tay tôi. “Nhìn kìa.”
Cô ấy chỉ xuống bãi biển, chỉ ngay dưới bãi cỏ nơi đàn cừu đứng, nơi một con thuyền nhỏ mắc cạn... một chiếc thuyền cứu sinh khác từ con tàu CSS Birmingham.
Chúng tôi quyết định không có cách nào cả để vượt qua lũ cừu ăn thịt người. Annabeth muốn tàng hình, lặng lẽ tiếp cận con đường và chộp lấy Bộ Lông Cừu Vàng. Nhưng cuối cùng tôi cũng thuyết phục cô ấy rằng có thứ gì đó vẫn không ổn. Lũ cừu sẽ đánh hơi được cô ấy. Kẻ canh gác khác sẽ xuất hiện. Một thứ gì đó. Và nếu điều đó xảy ra, tôi lại ở quá xa để có thể giúp cô ấy được.
Hơn nữa, việc đầu tiên của chúng tôi là tìm kiếm Grover và ai đã tới bờ biển này trên con thuyền cứu sinh – người đang được chúng tôi cho rằng họ đã vượt qua được đàn cừu. Tôi quá lo lắng để nói ra điều mà tôi hi vọng thầm kín... rằng Tyson có thể vẫn còn sống.
Chúng tôi neo con tàu Queen Anne’s Revenge ở phía sau hòn đảo, nơi có những vách đá dựng đứng phải cao tới sáu mươi mét. Tôi cho rằng con tàu sẽ khó bị phát hiện ở đó.
Những vách đá nom có thể trèo được – vừa đủ khó so với bức tường dung nham khi còn ở trại. Ít nhất chỗ đó cũng không có đàn cừu. Tôi hy vọng Polyphemus không nuôi lũ dê núi ăn thịt người.
Chúng tôi chèo chiếc thuyền cứu sinh tới chân núi và leo lên phía trên một cách chậm chạp. Annabeth đi trước vì cô ấy là người leo núi giỏi.
Chúng tôi đã suýt chết sáu hoặc bảy lần – mà tôi nghĩ rằng như vậy đã quá tốt rồi. Một lần, tôi mất kiểm soát và phát hiện chính mình đang đung đưa chỉ với một tay bám vào gờ của vách đá cách mặt nước biển đầy đá khoảng mười lăm mét. Nhưng rồi tôi phát hiện thấy một cái để bíu tay vào khác và tiếp tục leo lên. Một phút sau, Annabeth va phải mảng rêu trơn tuột và bị trượt chân. May mắn thay, cô ấy tìm được thứ để trụ lại. Không may, cái thứ đó lại chính là mặt tôi.
“Xin lỗi cậu,” cô ấy lầm bầm.
“Không sao,” tôi cằn nhằn, dù tôi không bao giờ thực sự muốn biết mùi vị đôi giày đế mềm của Annabeth ra sao.
Cuối cùng, khi những ngón tay của tôi có cảm giác như chì bị nung chảy và các cơ cánh tay đang run rẩy vì kiệt sức, chúng tôi đã tự kéo được chính mình trên đỉnh của vách đá và nằm vật xuống.
“Ưư,” tôi than thở.
“Ôi,” Annabeth rên rỉ.
“Không ai cả!” Polyphemus kêu lên. “Ta đã nhớ ra ngươi rồi!”
“Ngươi quá ngốc để nhớ bất kỳ ai,” Annabeth chế nhạo. “Tất nhiên là Không ai cả.”
Tôi hy vọng cô ấy sẵn sàng di chuyển khi cô ấy nói câu đó. Vì Polyphemus gần vang đầy tức giận, túm lấy tảng đá gần nhất (vô tình lại là cánh cửa trước hang của hắn) và ném về phía có tiếng nói của Annabeth. Tôi nghe thấy tiếng đá vỡ tan ra thành một ngàn mảnh.
Đáp lại khoảnh khắc đáng sợ đó là một sự im lặng. Rồi Annabeth lại gào lên, “Ngươi không học được cách ném gì tốt hơn cả!”
Polyphemus rú lên: “Tới đây! Để ta giết chết mi, Không ai cả!”
“Ngươi không thể giết. Không ai cả, đứa bé ngu ngốc à,” cô ấy chửi bới. “Hãy tự tìm ta đi!”
Polyphemus lao xuống quả đồi chạy theo hướng tiếng nói của cô ấy.
Giờ đây, cái từ Không ai cả đó là từ không có ý nghĩa đối với mọi người, nhưng Annabeth đã giải thích với tôi rằng đó là cái tên mà Odysseus đã dùng để lừa Polyphemus hàng thế kỷ trước, ngay trước khi ông ta đâm vào mắt tên Cyclops này bằng một thanh gỗ cháy lớn. Annabeth đoán rằng Polyphemus vẫn còn hận thù cái tên đó và cô đã đúng. Trong cơn tức giận điên cuồng tìm kiếm kẻ thù cũ, hắn đã quên mất việc đóng lại lối ra của hang. Hình như thậm chí hắn còn không đoán ra được rằng giọng của Annabeth là nữ, trong khi Không ai cả trước kia lại là nam. Mặt khác, hắn từng muốn cưới Grover, vì thế hắn không thể sáng suốt nhận ra đâu là nam, đâu là nữ.
Tôi chỉ hy vọng Annabeth còn sống sót và tiếp tục khiến hắn rối trí đủ lâu để tôi tìm được Grover và Clarisse.
Tôi buông vật cưỡi của mình, vỗ lên đầu Widget và xin lỗi. Tôi tìm căn phòng chính, nhưng không hề thấy dấu hiệu của Grover và Clarisse. Tôi chen lấn xuyên qua đám đông toàn cừu và dê để đi đến phía sau hang.
Mặc dù tôi đã từng mơ thấy nơi này, nhưng tôi thực khó tìm ra đường đi cho mình trong cái mê cung này. Tôi chạy về phía cuối các hành lang rải đầy xương, ngang qua những căn phòng phủ đầy thảm bằng da cừu và con cừu bằng xi măng có kích cỡ như thật mà tôi nhận ra là tác phẩm của Medusa. Có một loạt bộ sưu tập áo phông có hình cừu, rất nhiều bình lớn đựng mỡ cừu, áo khoác và tất bằng lông cừu, và mũ có gắn sừng cừu đực. Cuối cùng tôi cũng tìm ra được căn phòng dệt – nơi Grover đang chúi vào một góc, cố gắng cắt dây trói của Clarisse với một cái kéo an toàn.
“Không tốt,” Clarisse kêu lên. “Dây thừng này như sắt ấy!”
“Cậu chờ thêm mấy phút nữa!”
“Grover,” cô ta òa khóc đầy tức giận. “Cậu làm việc này đã mấy tiếng rồi!”
Rồi họ nhìn thấy tôi.
“Percy sao?” Clarisse kêu lên. “Đáng lẽ cậu phải bị nổ tung rồi cơ mà”
“Mừng vì được gặp lại cậu. Giờ giữ chặt trong khi tớ…”
“Perrrrrrcy!” Grover kêu be be và túm lấy tôi bằng một cái ôm. “Cậu đã nghe thấy tớ! Cậu đã tới rồi!”
“Ừ, người anh em à,” tôi đáp. “Tất nhiên là tớ đến chứ.”
“Annabeth đâu rồi?”
“Bên ngoài,” tôi nói. “Nhưng không có thời gian nói chuyện đâu. Clarisse, giữ chặt nhé.”
Tôi mở nắp cây Thủy Triều và chém đứt dây thừng. Cô ta đứng một cách khó khăn, xoa xoa cổ tay. Cô ta nhìn tôi chằm chằm trong giây lát rồi nhìn xuống dưới đất và lầm bầm, “Cám ơn nhé!”
“Không có gì,” tôi nói. “Giờ, còn ai nữa đi trên con thuyền cứu sinh của cậu không?”
Clarisse đầy kinh ngạc. “Không, chỉ có mình tớ thôi. Tất cả mọi người vẫn đi trên con tàu Birmingham… Ồ, tớ thậm chí không biết các cậu đi đấy.”
Tôi nhìn xuống, cố gắng không tin rằng hy vọng cuối cùng được nhìn thấy Tyson còn sống lại bị phá vỡ. “Được rồi, đi thôi. Chúng ta phải giúp…”
Một tiếng nổ vang tới tận trong hang kèm theo đó là một tiếng thét báo với tôi rằng chúng tôi đã quá muộn. Đó là tiếng thét của Annabeth trong sợ hãi.