Quyền Lực Thứ Tư
Chương 5 :
Ngày đăng: 15:13 19/04/20
Báo
THE TIMES
Ngày 9 tháng Ba, 1936
QUÂN ĐỨC CHIẾM VÙNG RHINE
Phải mãi tới khi người Đức tái chiếm vùng Rhine Lubji mới lần đầu tiên nghe nói đến cái tên Adolf Hitler.
Mẹ cậu nháy mắt khi bà đọc những lời của Quốc trưởng Đức đăng trong tờ tuần báo của vị giáo sĩ. Sau khi đọc xong mỗi trang, bà lại đưa nó cho đứa con trai lớn. Bà chỉ dừng lại khi trời quá tối không còn đọc được nữa. Lubji thì có thể tiếp tục đọc thêm được một lúc.
"Nếu Hitler vượt qua biên giới thì chúng ta cũng phải đeo những ngôi sao vàng hả mẹ?" Cậu hỏi.
Zelta giả vờ ngủ.
Từ lâu mẹ cậu đã không còn giấu được những người khác trong nhà chuyện Lubji là đứa con được bà cưng nhất, cho dù bà nghi chính cậu là thủ phạm của vụ chiếc trâm cài áo biến mất. Bà kiêu hãnh nhìn cậu con nay đã là một chàng thiếu niên cao to, đẹp trai. Nhưng bà vẫn dứt khoát, dù cậu buôn bán thành đạt, mà bà phải công nhận là cả nhà được nhờ, là cậu phải trở thành giáo sĩ. Bà có thể đã uổng phí đời bà, nhưng Lubji thì nhất định không được uổng phí đời nó.
Trong sáu năm sau đó, Lubji sáng nào cũng được vị giáo sĩ già kèm cặp trong ngôi nhà trên đồi. Đến trưa được thả, cậu lại ra chợ, là nơi mới đây cậu đã mua được sạp hàng riêng. Vài tuần sau lễ mitzvah, vị giáo sĩ trao cho mẹ Lubji lá thư người ta báo với ông rằng Lubji đã được học bổng để theo học tại trường ở Ostrava. Đó là ngày hạnh phúc nhất trong đời Zelta. Bà biết con bà thông minh, có lẽ còn xuất chúng nữa, nhưng bà cũng hiểu rằng việc được nhận vào học ở đó chỉ có thể là do tiếng tăm của ông cậu.
Lúc đầu, khi được biết có học bổng đi học, Lubji cố không tỏ ra hoảng hốt. Mặc dù chỉ được phép ra chợ vào buổi chiều, nhưng cậu đã kiếm đủ tiền để sắm cho mỗi người trong nhà một đôi giầy và hai bữa ăn hàng ngày.Cậu muốn giải thích với mẹ rằng làm giáo sĩ chẳng có nghĩa lý gì một khi cái mà cậu muốn là có một cửa hàng trong cái lô còn trống bên cạnh cửa hàng của ông Lekski.
Ông Lekski đóng cửa hiệu để lái xe đưa chàng thiếu niên đến trường. Trên con đường dài ấy, cậu nói với ông già rằng hy vọng một ngày nào đó sau khi học xong, cậu sẽ tiếp quản cửa hiệu của ông. Lubji chỉ muốn quay về nhà ngay và chỉ sau khi bị thuyết phục mãi cậu mới cầm chiếc túi da nhỏ, vật cuối cùng mà cậu trao đổi chiều hôm trước, để bước qua chiếc cổng đá to tướng vào trường. Nếu Lekski không nói thêm ông sẽ không bao giờ nhận Lubji vào làm trong cửa hàng, trừ phi cậu học hết năm năm ở trường, có lẽ cậu đã bỏ về.
Lubji nhanh chóng phát hiện ra rằng, ở trường, hầu như không có học trò nào thuộc gia đình nghèo hèn như cậu. Một vài đứa cùng lớp đã nói trực tiếp hoặc gián tiếp, là cậu không phải loại người chúng muốn giao thiệp. Những tuần sau đó, cậu cũng phát hiện thêm rằng những trò tiểu xảo mà cậu học được ngoài chợ chẳng có ích gì trong một thể chế như ở đây, cho dù ngay cả đứa thành kiến nhất cũng không thể phủ nhận được việc cậu có năng khiếu ngôn ngữ bẩm sinh. Và chắc chắn những giờ học dài, ít ngủ và kỷ luật chặt chẽ không làm cậu bé từ Douski lo ngại.
Vào cuối năm học đầu tiên tại Ostrava, Lubji đứng ở nửa trên của lớp trong tất cả các môn. Cậu đứng đầu môn toán, thứ ba môn tiếng Hung - hiện đã trở thành ngôn ngữ thứ hai của cậu. Nhưng ngay cả ông hiệu trưởng cũng không thể không nhận thấy cậu rất ít bạn và ngày càng trở nên cô độc. Ít ra thì ông cũng yên tâm là không có đứa nào dám ăn hiếp thằng bé bất trị này; đứa duy nhất thử giở trò đó đã phải vào trạm xá điều trị.
Khi Lubji trở lại Douski, cậu ngạc nhiên thấy thị trấn sao mà nhỏ, gia đình cậu sao mà nghèo và sao họ đã quen dựa vào cậu đến thế.
Sáng sáng, sau khi cha cậu đã ra đồng, Lubji thường đi bộ đến nhà vị giáo sĩ ở trên đồi để tiếp tục học. Nhà học giả già kinh ngạc trước khả năng làm chủ ngôn ngữ của cậu, và thừa nhận ông không còn dạy nổi cậu môn toán nữa. Buổi chiều Lubji trở lại chợ, và gặp ngày may mắn, cậu kiếm đủ đồ ăn cho cả nhà.
Cậu thử dạy các em trai cách thức buôn bán để chúng có thể quản lý được sạp hàng vào buổi sáng và sau khi cậu trở lại trường, và nhanh chóng nhận ra rằng đó là việc làm vô vọng. Cậu những mong mẹ cho phép cậu ở lại nhà, xây dựng được một cơ sở buôn bán mà cả nhà có thể được nhờ cậy. Nhưng Zelta tỏ ra không quan tâm đến những gì cậu làm ngoài chợ, mà chỉ hỏi về chuyện học hành mà thôi. Bà đọc đi đọc lại phiếu báo điểm, đến mức cuối ngày chắc đã thuộc lòng từng dòng. Điều đó càng làm Lubji thêm quyết tâm năm sau phiếu báo điểm của cậu phải làm mẹ hài lòng hơn nữa.
Hết kỳ nghỉ sáu tuần, Lubji miễn cưỡng cho quần áo vào lại chiếc túi da nhỏ và lại được ông Lekski đánh xe đưa trở lại Ostrava. "Lời mời của bác vẫn để ngỏ", ông nói với cậu, "nhưng chỉ sau khi cháu học xong".
Vào năm học thứ hai, cái tên Adolf Hitler xuất hiện trong các câu chuyện thường xuyên chẳng kém gì tên của Moise. Ngưòi Do Thái hàng ngày bỏ chạy qua biên giới kể lại những chuyện kinh hoàng đang diễn ra ở Đức và Lubji thường tự hỏi không biết gã Quốc trưởng tới đây còn dự định làm những trò gì. Cậu đọc tất cả các báo mà cậu có được bằng các thứ tiếng, cho dù là báo cũ.
"Hitler nhìn về phương Đông", một tít trên trang nhất của tờ Ostrava viết. Khi Lubji giở tới trang bảy để đọc nốt bài báo thì không thấy, nhưng điều đó không ngăn được cậu tự hỏi bao lâu nữa thì xe tăng Đức sẽ tiến vào Tiệp Khắc. Cậu có thể nói chắc một điều: cái chủng tộc siêu việt của Hitler chắc chắn không bao gồm những người như cậu.
Mấy tuần sau đó, trong lúc làm việc, cậu thỉnh thoảng lại ngước mắt nhìn xưởng in phía bên kia đường. Đêm đêm cậu nằm trên giường, cố hình dung trong đó có gì.
Sau khi làm việc cho ông bà Ceranis sáu tháng, Lubji đã tiết kiệm được hầu như toàn bộ số lương của mình. Quần áo duy nhất mà cậu có là bộ com lê mua ở cửa hàng đồ cũ, hai áo sơ mi và một chiếc cravát có chấm thay thế cho bộ đồng phục học sinh. Nhưng mặc dù yên ổn ở đây, cậu vẫn ngày càng cảm thấy lo lắng về việc Hitler sẽ tấn công tiếp nước nào. Sau khi xâm lược Ba Lan, Hitler đã có những bài diễn văn trấn an người Hung rằng, hắn coi họ là đồng minh. Nhưng nhìn vào những việc hắn đã làm, đồng minh không phải là từ hắn tra trong từ điển tiếng Ba Lan.
Lubji cố không nghĩ tới việc lại phải di chuyển một lần nữa, nhưng mỗi ngày qua đi là mỗi ngày cậu đau đớn nghe mọi người nói thẳng ra rằng cậu là một gã Do thái, và cậu không thể không nhận thấy một vài người địa phương hình như đang chuẩn bị để đón bọn Quốc xã.
Một buổi sáng khi đang trên đường đi làm, một người đi đường huýt sáo ra ý chửi cậu. Cậu ngạc nhiên, nhưng chỉ vài ngày sau, việc đó trở thành thường xuyên. Rồi những viên đá đầu tiên bắt đầu ném vào cửa sổ xưởng in của ông Ceranis, và một vài khách quen bắt đầu qua phố lấy báo của ông Farkas. Nhưng ông Ceranis tiếp tục nhắc lại là Hitler đã nói rõ, hắn không bao giờ xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của Hung.
Lubji nói với ông đó cũng là những lời Hitler đã nói trước khi xâm lược Ba Lan. Cậu kể tiếp cho ông nghe về một người Anh tên là Chamberlein mấy tuần trước đã đệ đơn từ chức thủ tướng.
Lubji biết cậu vẫn chưa tiết kiệm đủ tiền để qua một nước khác; vì thế, thứ Hai sau đó, trước khi ông Ceranis xuống ăn sáng, cậu mạnh dạn bước qua phố, vào xưởng của ông Farkas. Ông này không giấu nổi ngạc nhiên khi thấy Lubji không mời mà đến.
"Ông vẫn cần một trợ lý giám đốc chứ?" Lubji hỏi ngay, không muốn người khác nhìn thấy mình ở bên này phố.
"Với một thằng Do thái thì không", ông Parkas nhìn thẳng mặt cậu, trả lời. "Cho dù cậu nghĩ mình giỏi giang thế nào cũng mặc. Dẫu sao ngay khi Hitler tiến quân vào Hung, tôi cũng sẽ tiếp quản cái xưởng đó".
Lubji bỏ ra ngoài, không nói một lời. Một tiếng sau, khi ông Ceranis đến xưởng, cậu nói với ông là ông Farkas lại gạ cậu lần nữa. "Nhưng cháu nói tiền không mua được cháu”. Ông Ceranis gật đầu không nói gì. Lubji không ngạc nhiên khi đến thứ Sáu, mở chiếc phong bì nhỏ, cậu thấy mình lại được tăng lương.
Lubji tiếp tục để dành hầu như toàn bộ số tiền kiếm được. Khi dân Do thái bắt đầu bị bắt vì những chuyện rất nhỏ nhặt, cậu bắt đầu nghiên cứu chặng đường đi trốn. Mỗi đêm, sau khi ông bà Ceranis đã ngủ, Lubji thường mò xuống dưới nhà, nghiên cứu tấm bản đồ trong văn phòng nhỏ của ông Ceranis. Cậu tính đi tính lại con đường sẽ phải đi. Cậu cần phải tránh vượt biên giới vào Nam Tư vì chẳng chóng thì chày, nó cũng sẽ chịu chung số phận như Ba Lan và Tiệp khắc. Ý cũng như Nga, đều không được. Cuối cùng cậu chọn Thổ Nhĩ Kỳ. Mặc dù không có giấy tờ tuỳ thân, cậu quyết định cuối tuần sẽ tới ga tàu hoả xem có thể mua vé lên tàu qua Rumani và Bungari để tới Istanbul đuợc không. Ngay sau nửa đêm, Lubji gập chiếc bản đồ châu Âu lại lần cuối, rồi trở về căn phòng nhỏ sát nóc nhà.
Cậu biết sẽ đến lúc phải nói với ông Ceranis về kế hoạch của cậu, nhưng quyết định đợi cho đến thứ Sáu, sau khi đã lĩnh lương. Cậu leo vào giưòng, lăn ra ngủ, cố hình dung cuộc sống sẽ thế nào ở Istanbul.
Ở đó có chợ không, và người Thổ có thích đổi chác mặc cả không ?
Lubij giật mình tỉnh giấc sau tiếng động rất mạnh. Cậu nhảy khỏi giường, chạy lại cửa sổ nhỏ nhìn xuống. Đường phố đầy lính, lăm lăm súng trường. Một số tên dùng báng súng đập rầm rầm vào cửa. Chỉ lát nữa thôi, chúng sẽ tới nhà ông bà Ceranis. Lubji vội vàng mặc lại bộ quần áo hôm trước, vớ túi tiền dưới đệm đút vào người, thít chặt thêm thắt lưng.
Cậu chạy xuống nhà, biến vào buồng tắm của ông bà Ceranis. Cậu vớ chiếc dao cạo râu của ông già, nhanh chóng cắt những đụn tóc xoăn dài đến vai của mình. Cậu bỏ mớ tóc vào bệ xí rồi giật nước. Sau đó cậu mở ngăn nhỏ đựng thuốc, lấy kem bôi tóc của ông Ceranis xoa hết lên đầu, hy vọng giấu được việc tóc cậu vừa cắt.
Lubji nhìn vào gương, cầu Chúa rằng với bộ comlê ve to có hai hàng khuy màu xám, sơ mi trắng và cravát xanh chấm đen, bọn lính xâm lược sẽ nghĩ cậu chỉ là một thương gia Hung đang ở thăm thủ đô. Ít ra bây giờ cậu đã có thể nói tiếng Hung mà không có giọng người nước ngoài. Cậu dừng lại một lúc rồi mới bước ra. Trong khi rón rén đi xuống cầu thang, cậu nghe tiếng đập rầm rầm ở cửa nhà bên cạnh. Cậu vội vàng kiểm tra phòng ngoài, nhưng không thấy vợ chồng ông Ceranis đâu. Cậu vào bếp thì thấy hai vợ chồng già đang ôm chặt lấy nhau trốn dưới gậm bàn. Trong khi bảy cây nến của David đang cháy ở góc nhà, khó có thể có cách giấu được việc họ là người Do thái.
Không nói một lời, Lubji rón rén đi lại gần cửa sổ nhà bếp nhìn ra sân sau. Cậu thận trọng tháo cánh cửa và thò đầu ra ngoài. Không có bọn lính ở đó. Cậu nhìn sang bên phải: một con mèo đang cố trèo lên một cây to. Cậu nhìn sang trái đúng khi cặp mắt của tên lính đang nhìn cậu chằm chằm. Cạnh hắn là ông Farkas đang gật đầu nói: "Nó đấy".
Lubji mỉm cười hy vọng, nhưng tên lính thẳng tay nện báng súng vào cằm cậu. Cậu lộn ra ngoài cửa sổ, rơi xuống đường. Cậu ngước lên thì thấy lưỡi lê đang dí ngay trán.
"Tôi không phải người Do thái", cậu hét to. "Tôi không phải Do thái".
Hẳn tên lính đã tin lời cậu hơn, nếu cậu không nói những lời đó bằng tiếng Yiddish.