Tây Du Ký

Chương 11 : Xuống Âm Ti, Thái Tôn huởn sanh Ði dâng dưa, Lưu Toàn gặp vợ

Ngày đăng: 08:20 19/04/20


Nói về vua Thái Tôn thấy vía đi dạo, ra khỏi lầu Ngũ Phụng. Thấy vua ngự thỉnh vua đi săn; Thái Tôn theo dõi một hồi binh gia đâu mất, còn một mình giữa đồng nội, không biết ngõ mà đi, sợ hết hồn hết vía.



Xảy nghe tiếng kêu lớn hét rằng:



- Tâu Hoàng đế đi lại ngỏ nầy.



Vua Thái Tôn ngó ngoái, thấy người ấy đội mão thẻ ngang, buộc đai da tây tay cầm hốt ngà, mặc áo địa rộng, quì bên đường mà nói rằng:



- Tôi rước trễ, xin Bệ Hạ tha tội tôi.



Vua Thái Tôn hỏi:



- Vậy chớ khanh là ai đó?



Người ấy tâu rằng:



- Khi tôi sống phò vua trước, làm Tri huyện Từ châu; sau lên chức Thị Lang bộ Lễ, tôi họ Thôi tên Giác, nay thác xuống Âm Phủ làm chức Phán quan. Nguyên hôm trước tôi có thấy việc rồng ma đi cáo, nên biết bữa nay có Bệ Hạ xuống đây, tôi mới tiếp giá.



Vua Thái Tôn đở dậy mà nói rằng:



- Cám ơn thầy có công rước Trẫm, mà Ngụy Trưng lại có gởi phong thơ cho thầy đây, may gặp tình cờ.



Nói rồi đưa phong thơ cho Thôi Giác.



Thôi Phán quan tiếp thơ mà đọc, trong thơ nói như vầy:



Thơ gởi cho:



Quan Ðại Ðô Án là anh họ Thôi xem rõ,



Nhớ xưa làm bạn, hình dạng như thường,



Sau cách âm dương, vắng lời dạy dỗ,



Cảm tình chẳng rõ, cho thấy chiêm bao,



Mới hay anh chức trọng quyền cao,



Hiềm vì nổi kẻ u người hiển,



Nay Thánh Hoàng hầu kiện,



Nhờ huynh trưởng nghĩ tình,



Có phương chi cho đặng huờn sinh,



Nhờ ơn ấy cầm bằng tái tạo.



Em bạn là Ngụy Trưng cúi dâng.



Thôi Phán quan xem thơ mừng mà nói rằng:



- Quân nhân Tào họ Ngụy thiếp chém Rồng Bạch tôi cũng hay rồi, lại nhờ ơn đỡ đầu con cháu tôi trên dương thế, nay gởi thơ cậy tôi như vậy, mà Bệ Hạ còn lo làm chi? Sao sao tôi cũng lo cho Bệ Hạ huờn sinh mà trị nước.



Vua Thái Tôn nói cám ơn, xảy thấy cặp Ðồng tử áo xanh, kẻ cầm phướn, người cầm lộng kêu rằng:



- Vua Diêm vương cho thỉnh Hoàng Ðế.



Vua Thái Tôn đi theo Thôi Phán quan và hai tên Ðồng tử, ngó thấy trước cửa thành, treo một tấm bảng dài đề bảy chữ vàng rằng:



U Minh địa giới quỷ môn quan,



Nghĩa là: Tối mờ cõi đất cửa hồn ma.



Ðồng tử áo xanh rung cây phướn mà dắt vua.



Thái Tôn vào khỏi cửa thành, ngó thấy hồn anh là Kiến Thành, hồn em là Nguơn Kiết đồng ré lên rằng:



- Thế Dân xuống đó, Thế Dân xuống đó.



Bên thì Nguơn Kiết, bên thì Kiến Thành áp lại níu hồn Thái Tôn mà đòi thường mạng, hồn Thái Tôn đánh không khỏi, bị hai quỷ kéo lôi.



Thôi Phán quan kêu quỷ sứ nanh bạc mặt xanh nạt Nguơn Kiết, Kiến Thành chạy hết.



Hồn Thái Tôn đi khỏi ước vài dặm đường, thấy đền đài lợp ngói xanh, lầu đài rực rỡ, hồn Thái Tôn đang ngó, xảy nghe tiếng ngọc len ken, mùi hương bát ngát, hai cặp xách lồng đèn đi trước, mười vua Minh chúa ra tiếp rước Thái Tôn.



Hồn Thái Tôn khiêm nhường quá chừng không dám đi trước, mười vua nói:



- Bệ Hạ là vua mười cõi Dương thế, còn chúng tôi là vua cõi Âm ti, nên anh em tôi cung kính Bệ Hạ là thiệt tình, xin đừng ké né.



Hồn Thái Tôn nói:



- Trẫm có tội vào hầu dưới bệ, đâu dám luận người qủy âm dương.



Ðồng vào tới đền Sum La, ngồi như chủ khách nói chuyện một lát, rồi vua Nhứt Ðiện là Tần Quảng vòng tay mà hỏi rằng:



- Ma Rồng ở sông Kinh đi cáo rằng: "Bệ Hạ hứa cứu rồi lại giết đi, là vì cớ nào vậy? Hồn Thái Tôn nói rằng:



- Trẫm chiêm bao thấy rồng cầu cứu thiệt có hứa lời, chẳng ngờ tội đáng hành hình về phần Ngụy Trưng xử trãm. Trẫm đòi Ngụy Trưng vào đánh cờ với trẫm, Ngụy Trưng xuất vía mà chém Long Vương; ấy là Ngụy Trưng có phép hay mà cũng tại Long vương đáng tội chết, chớ trẫm có sai giết ở đâu, sao vu oan mà kiện trẫm? Mười vua trả lời rằng:
- Chẳng hay Bệ Hạ chiêm bao thấy những điều chi, mà bèn lâu mới tỉnh?



Vua Thái Tôn đọc hết việc đi hầu tra dưới Âm phủ, cho các quan nghe, lại nói:



- Khi trẫm từ giả mười vua Thập điện, có hứa sự dâng dưa hấu mà tạ ơn, từ ra khỏi đền Sum La, thấy những tội nhân dưới Âm phủ, là loài chẳng thảo chẳng hay, không lễ không nghĩa, hoài huởn lúa gạo, lường gạt người ta, giạ già giạ non, cân cao ân thấp, tham dâm ở dối, làm dữ hại người, các tội ấy đều bị xay giả nấu dầu, xẻ cưa đốt xác, cả muôn cả triệu, xem thấy cũng thương. Ði ngang qua thành Uổng Tử là thành chứa quỷ thác oan, bị lũ cô hồn đón Trẫm, nhờ Thôi Phán quan bảo lãnh, mượn một kho vàng bạc của Tướng Lương mà phân phác cho lũ oan hồn đặng chúng nó tránh đường Trẫm đi về mới đặng. Thôi Phán quan dặn Trẫm, về Dương thế làm chay lớn, cho siêu rỗi cô hồn.



Các quan nghe rõ đầu đuôi, ai cũng mừng rỡ, vội chạy công văn cho các quan tỉnh biết, đặng dâng sớ mà mừng, vua lại xuống chiếu chỉ những tù tội nhẹ đều tha. Có hơn 400 tù xử tử, tha về xứ một năm, đặng thăm viếng cha mẹ anh em chồng vợ, và gởi gấm nhà cửa xong rồi, đúng một năm phải tựu mà chịu tội.



Lại xuất tiền bạc bố thí cho kẻ đói và con nít mồ côi.



Lại thả 3 ngàn 6 trăm cung nga ra ngoài cho kiếm đôi bạn.



Từ ấy trong ngoài đều mến đức.



Lại ngự chế lời khuyên dỗ, treo bảng khắp xứ mà dạy dân, lời ngự chế trong bảng như vầy:



Âm dương rộng rãi, nhật nguyệt hằng chiếu mọi nơi,



Bờ cõi lộng khơi, trời đất không dung đảng vạy



Ðộc lòng bày kế, mang tai cũng nội đời này,



Hay thí ít cầu, đặng phước hóa chờ kiếp khác



Ngàn lời dối trá, chi bằng giữ phận thiệt thà,



Muôn mối tham lam, khó sánh theo bể cần kiệm



Lòng lo làm phước, lựa là rán sức xem kinh?



Ý muốn hại người, có phải hoài công đọc sách.



Cả và thiên hạ ai thấy lời ngự chế cũng cảm động mà làm lành.



Vua Thái Tôn lại treo bảng rao khắp mọi nơi, ai chịu xuống Âm phủ mà dâng dưa thì lãnh bảng.



Vua lại xuất một kho vàng bạc, sai Ngạc Quốc công là Huất Trì Kỉnh Ðức (Cung) đến khai phong phủ mà trả cho Tướng Lương.



Bây giờ nói qua Lưu Toàn là người nhà giàu ở Quảng Châu, vợ là Lý Túy Liên, tính người khẳng khái, Lý Túy Liên lấy trâm vàng mà bố thí cho thầy sãi.



Lưu Toàn bắt lỗi vợ, nói cũng nhiều điều:



- Sao không giữ phận đàn bà bêu đòi ra cửa, lại đem vật trang sức (nữ trang) mà cho người.



Lý Túy Liên tức mình thắt cổ mà chết, bỏ lại một trai, một gái khóc chèo chẹo tối ngày.



Lưu Toàn tức mình mới lãnh bảng đi dâng dưa cho khuất con mắt.



Khi vua Thái Tôn ngự, thấy Lưu Toàn lãnh bảng vào chầu, tình nguyện dâng dưa dưới Âm phủ.



Vua Thái Tôn truyền cho Lưu Toàn ra quán Kim Ðình, đầu đội cặp dưa hấu, trong tay áo đựng giấy tiền vàng bạc, rồi uống thuốc độc mà chết.



Hồn Lưu Toàn đội dưa xuống Âm phủ, nói cùng quỷ xứ rằng:



- Vâng lệnh Hoàøng đế đi xuống dâng dưa.



Quỷ xứ dắt vào đền Sum La mà ra mắt Diêm chúa.



Hồn Lưu Toàn nói:



- Hoàng đế dạy tôi dâng cặp dưa cho Bệ Hạ mà tạ ơn.



Mười vua khen rằng:



- Vua Thái Tôn có đức nên nói chẳng sai lời.



Khen rồi hỏi tên họ người dâng dưa, Lưu Toàn tâu rằng:



- Tôi họ Lưu tên Hoàng, dân ở Quảng Châu, bởi vợ tôi là Lý Túy Liên thắt cổ mà chết, bỏ hai đứa con dại kêu khóc ngày đêm nên tôi tức mình bỏ của bỏ con, mà đi dâng dưa cho gặp vợ.



Vua Diêm vương truyền lệnh dẫn hồn Túy Liên ra mắt, cho gặp mặt chồng.



Lại truyền Phán quan đem bộ ra xem, thấy số vợ chồng Lưu Toàn sau thành Tiên hết thảy, mới sai quỷ sứ quờn hồn cả hai.



Quỷ sứ tâu rằng:



- Lý Túy Liên chết đã ba tháng, thây đã rả rời, huờn hồn sao đặng.



Vua Diêm vương nói:



- Ðường ngự muội Lý Ngọc Anh nay đã mãn số. Vậy thì mượn xác thế vào.



Quỷ sứ vâng lới dẫn hai hồn đem về Dương thế.



Quỷ sứ vâng lệnh Diêm vương dẫn hai hồn đi khỏi Âm phủ lên đến Trường An, đem hồn Lưu Toàn xô vào quán Kim Ðình là chỗ xác, rồi đem hồn Lý Túy Liên vào thành vua.



Ngó thấy em gái vua Thái Tôn là Lý Ngọc Anh té xuống, liền bắt hồn đi, rồi xô hồn Lý Túy Liên vào xác.