Thánh Giá Rỗng
Chương 9 :
Ngày đăng: 09:15 18/04/20
Trên bệ đặt áo quan phủ một mảnh vải lụa là một tấm ván bằng gỗ trắng, đặt trên đó là những gì còn lại của Bobby sau khi đi vào cõi vĩnh hằng.
Bobby là một chú chó cái giống Dachshund, hưởng dương 13 tuổi, của
gia đình Yamamoto. Ông bà chủ cũng chia sẻ chú vốn mắc bệnh tim, vậy mà
chú vẫn cố gắng sống thật lâu cùng gia đình.
Cả nhà Yamamoto bốn người không khỏi cảm thán khi nhìn phần cốt còn
lại của Bobby, cô con gái tầm tuổi trung học thốt lên, "Thật đẹp, trông
cứ như tiêu bản vậy".
"Sảnh thiên thần" rất coi trọng nghi thức thu thập phần cốt sau khi
đã hỏa táng. Đa số chủ nuôi mang theo phần tro cốt đựng trong hộp của
thú cưng về, nhưng có lẽ từ đó về sau họ không một lần mở ra nhìn lại.
Nếu như đem tro cốt của thú cưng rải đi, thì nghi lễ này chính là lần
cuối cùng người chủ nuôi được ở bên thú cưng của mình. Để nghi lễ này
trở thành một ký ức đáng trân trọng, ở nơi đây người ta đặt phần cốt của con thú nằm lại ở hình dáng đẹp đẽ nhất có thể. Phần xương sống, xương
tứ chi và các khớp xương được xếp đặt như hình dáng con thú khi còn
sống, phần xương sọ cũng đặt ở vị trí thích hợp. Nhưng cũng có lúc gặp
trường hợp con thú chết vì bị bệnh nên phần xương quá yếu, không thành
hình được, cần đến kỹ thuật hỏa táng tay nghề cao.
Kanda Ryoko vừa giải thích vừa làm mẫu cách gắp các mảnh xương cho
gia đình chủ nuôi, sau đó họ cũng cầm đũa bắt đầu nhặt từng mảnh xương
còn lại của chú chó cưng. Nakahara đứng một bên chứng kiến toàn bộ.
Quấn lấy bên dưới chân gia đình Yamamoto là một chú chó Dachshund,
chính là con của Bobby đã mất. Chú chó còn lại này bây giờ đã được 8
tuổi, có lẽ sau này sẽ thay mẹ nó sưởi ấm không khí gia đình Yamamoto.
Chú chó nhỏ khịt khịt mũi, thở dốc.
Nghi thức gắp xương và dán ngày lên hũ đựng tro cốt kết thúc, cả nhà bốn người đều thanh thản.
"Nhờ có anh mà chúng tôi đã chia tay với cháu nó được thanh thản. Xin chân thành cảm ơn." Người chủ gia đình Yamamoto nói khi chuẩn bị ra về. Phu nhân đứng bên cạnh dường như cũng rất thoải mái.
"Chúng tôi rất vui vì có thể giúp được gia đình." Nakahara đáp lời.
Chính những lúc như thế đã khiến anh cảm thấy thật may mắn khi chọn
công việc này. Mỗi khi chứng kiến từng người rũ bỏ được nỗi đau mang
trên người, anh cảm giác trái tim yếu ớt của mình cũng phần nào được xoa lành.
Cậu con trai mới học tiểu học ôm lấy chú chó nhỏ, chú chó vẫn thở phì phò trong lòng cậu bé. Anh nói chuyện này với người chủ gia đình, thì
được người vợ giải thích, "Đúng thế đấy ạ. Dạo gần đây nó hay bị thế.
Không biết có phải do bụi trong nhà không, tôi vẫn dọn dẹp nhà hàng
ngày."
"Có khi nó bị suy khí quản."
Câu nói của anh khiến cả nhà bốn người họ sửng sốt.
"Động vật càng già thì khí quản càng yếu đi, nhất là đối với những
giống chó loại nhỏ như thế này. Chó nhỏ nên mỗi khi nhìn chủ chúng lại
phải ngước đầu lên. Thực ra tư thế ngước đầu ấy không tốt cho cơ thể
chúng."
"Khí quản bị yếu đi thì sẽ bị làm sao?" Người vợ hỏi tiếp.
"Sẽ dẫn đến nhiều chứng bệnh khác nhau. Hay anh chị đưa nó đến bác sĩ thú y khám thử xem sao. Tôi trông nó vẫn chưa bị nặng lắm, nếu chữa trị sớm chắc không có chuyện gì đâu."
"Chúng tôi sẽ đưa nó đi khám. Chúng ta phải chăm sóc để nó sống thật lâu mới được."
Người chồng cũng gật đầu đồng tình với vợ, "Anh cũng rành về bệnh lý của động vật nữa nhỉ," người vợ khen.
"Không không, cũng bởi vì tôi hàng ngày gặp nhiều động vật thôi. Mong cho nó sớm khỏe lại."
"Cảm ơn anh," nói rồi cả gia đình Yamamoto rời đi. Sau khi tiễn
khách, Nakahara quay sang Kanda Ryoko cười khổ, "Lâu lắm rồi tôi mới lại được người ta khen."
"Điều đó chứng tỏ anh đã trở thành người chăm sóc tang lễ cho thú cưng hoàn hảo rồi. À đúng rồi, anh có bưu phẩm gửi đến đấy."
Kanda Ryoko lấy từ phía sau bàn tiếp tân một phong bì lớn. Ban đầu
anh không biết nó là thứ gì, nhưng sau khi nhìn thấy tên nhà xuất bản in trên mặt phong bì, anh rút cục cũng nhớ ra. Quả nhiên mặt sau phong bì
có năm chữ Hiyama Chizuko viết tay, là biên tập viên anh gặp trong đêm
trước tang lễ của Sayoko. Chắc là số tạp chí có đăng bài viết cuối cùng
của Sayoko đã được xuất bản. Mặc dù cô biên tập viên đã nói sẽ gửi cho
anh, nhưng thú thực anh không để ý lắm, vì thế nhận được phong bì này
anh cũng rất ngạc nhiên.
Nakahara trở về chỗ ngồi mở phong bì, lấy ra cuốn tạp chí bên trong.
Cuốn tạp chí dành cho đối tượng phụ nữ trong độ tuổi 30, hình ảnh trang
bìa là cô diễn viên đại diện cho giới phụ nữ ấy.
Có một mẩu giấy nhớ màu hồng đánh dấu khoảng giữa tạp chí, mở đến
trang đó, đập vào mắt anh là tiêu đề bài viết, "Đôi tay không nghe lời - Bệnh nghiện ăn cắp vặt và cuộc sống đơn độc chống lại bệnh tật."
Anh chợt nhớ ra câu chuyện bà Hamaoka Satoe đã kể cho mình. Lúc
Sayoko mới bắt đầu công việc viết lách, cô viết nhiều về thời trang
nhưng gần đây, cô bắt đầu viết về các vấn nạn xã hội. Anh cũng nhớ mình
đã nghe trong câu chuyện của bà về cụm từ bệnh nghiện ăn cắp vặt.
Có khi nào, cô gái tên Iguchi đến cùng Hiyama Chizuko đêm trước tang
lễ chính là một bệnh nhân của căn bệnh này không? Anh nhớ rõ cô gái ấy
có dấu hiệu bị bệnh, cũng dễ hiểu khi cô ta không trả lời anh nội dung
làm việc với Sayoko là gì.
Nakahara đọc qua một lượt bài viết. Bài viết nói về bốn người phụ nữ, về nguyên nhân hoàn cảnh dẫn đến căn bệnh của họ, và căn bệnh đã hành
hạ cuộc đời họ như thế nào.
Người phụ nữ đầu tiên được giới thiệu từng là nhân viên văn phòng,
thời đi học là học sinh ưu tú, là kỳ vọng lớn lao của cha mẹ. Trên thực
tế, cô ấy cũng chăm chỉ học hành, thi vào một trường đại học top đầu,
làm việc tại một doanh nghiệp nước ngoài hàng đầu. Nhưng công việc quá
bận rộn khiến cô ấy bắt đầu căng thẳng, thậm chí đến mức nôn mửa khi ăn, nói theo y học là chứng bệnh rối loạn ăn uống. Nghiêm trọng hơn, cứ
nhìn thấy những gì mình nôn ra, cô ấy lại cảm thấy bản thân mình vừa ném đi số tiền lương vất vả kiếm được. Một ngày nọ, cô ấy đã lén lấy trộm
bỏ vào túi một chiếc bánh ngọt. Cô không hề bị nôn khi ăn chiếc bánh đó, thậm chí còn cảm thấy thoải mái như được giải thoát. Từ đó về sau, cô
ta thường xuyên ăn cắp vặt, rồi bị bắt khi đang lấy trộm một món đồ chỉ
trị giá sáu trăm yên. Cho đến lúc bị bắt và nhận án tù treo, cô ta đã
liên tục ăn cắp vặt trong suốt 10 năm. Cô ta bắt đầu điều trị chứng
nghiện ăn cắp tại trung tâm chuyên trách từ sau khi bị bắt.
Người thứ hai trong bài viết là một nữ sinh viên đại học. Vì nhu cầu
muốn giảm béo khi còn là học sinh cấp ba, cô bé này bắt đầu ăn kiêng,
dẫn đến mắc chứng biếng ăn tâm lý và háu ăn tâm thần. Tiền ba mẹ gửi lên hàng tháng không đủ để chi trả chi phí ăn uống, vì thế cô bé bắt đầu
lấy cắp đồ trong siêu thị. Hiện nay cô bé đã nghĩ học tập trung chữa trị tại bệnh viện.
Người thứ ba được nói đến là một bà nội trợ khoảng hơn 40 tuổi. Chị
ta bắt đầu ăn cắp đồ với mục đích tiết kiệm. Ban đầu, chị ta chỉ lấy
thực phẩm, nhưng sau đó chị ta dần có suy nghĩ chỉ có kẻ ngu ngốc mới
phải trả tiền, thế là chị ta lấy cắp cả quần áo và đồ phụ kiện. Chị ta
bị bắt ba lần, đến lần gần đây nhất phải thụ án. Sau khi thụ án xong và
rời khỏi trại giam, chị ta ly dị với chồng, rời bỏ đứa con và hiện đang
sống một mình. Liệu chị ta có tiếp tục ăn cắp đồ nữa không, không ai nói chắc chắn được.
Người cuối cùng là một cô gái ngoài 30 tuổi. Mẹ mất sớm, ba cô một
mình nuôi con. Cô gái này bắt đầu bị bất ổn tâm lý từ khi mười mấy tuổi, đã tự sát bất thành nhiều lần. Sau khi học hết cấp ba trường làng, cô
lên thủ đô với mơ ước trở thành chuyên viên thẩm mỹ, nhưng do chứng bệnh tay run mỗi khi lo lắng không thể chữa khỏi nên đành bỏ dở. Cô kiếm
sống bằng nghề bán vốn tự có. Năm 25 tuổi cô kết hôn với một người đàn
ông quen biết từ trước đó, nhưng lại trở thành nạn nhân của bạo lực gia
đình, rút cục họ ly hôn sau một năm chung sống. Sau đấy, cô trở lại làm
gái gọi, tai họa ập đến khi người cha ruột thịt của cô gặp tai nạn mà
chết. Tai nạn đó tạo nên cú sốc tâm lý lớn, cô bắt đầu nghĩ người cha
tối rồi mới về nhà. Vào cái đêm Sayoko bị giết hại, anh có chứng cứ
ngoại phạm ăn cơm tại quán này. Sau khi được biết về vụ án, anh không
đến quán nữa nhưng từ hai tuần trước anh bắt đầu quay lại. Nhân viên
quen trong quán nhìn thấy anh đến cũng không nói gì, có lẽ cảnh sát
không điều tra đến đây.
Anh chọn chỗ ngồi ở một bàn dành cho bốn người, gọi một suất cơm theo ngày. Suất cơm này giúp anh mỗi ngày đều có thể ăn các món khác nhau dù là ăn ở quán. Món chính trong thực đơn hôm nay là cá sòng tẩm bột rán.
Nakahara để bản thảo của Sayoko lên mặt bàn, định bụng vừa ăn vừa
đọc. Nhưng mới chỉ đọc đến phần vào đề, anh liền dừng lại. Nội dung viết trong bản thảo này không phải thứ có thể đọc giết thời gian trong lúc
ăn cơm. Trong từ câu chữ anh cảm nhận được quyết tâm cũng như tâm niệm
của Sayoko.
Những người ủng hộ cho luận điểm xóa bỏ án tử hình, họ không hề biết
đến nạn nhân của tội ác - anh nhớ lại trong đầu câu văn vừa đọc được.
"Thân nhân người bị hại mong muốn án tử hình không chỉ đơn thuần vì
lý do muốn trả thù. Hãy thử tưởng tượng, những người có người thân yêu
bị giết hại, họ đã phải trải qua nỗi đau đớn nhường nào để có thể chấp
nhận sự thật. Hung thủ chết đi không có nghĩa là nạn nhân sẽ sống lại.
Nhưng, vậy họ mong muốn cái gì? Thân nhân người bị hại phải làm gì để
được cứu rỗi khỏi nỗi đau? Họ muốn có án tử bởi họ không biết phải bấu
víu vào cái gì khác. Nếu như các vị cho rằng cần phải xóa bỏ án tử hình, vậy hãy cho họ - thân nhân người bị hại, một cái gì khác thay thế."
Ăn hết phần cơm mà không cảm nhận được chút nào vị của con cá sòng, anh rời khỏi quán rảo bước về căn hộ của mình.
Về đến nhà, sau khi thay đồ, anh ngay lập tức lấy tập bản thảo ra đọc tiếp. Đây là lần đầu tiên anh đọc văn do Sayoko viết với một độ dài như thế này. Anh không biết giọng văn này có thể gọi là giỏi hay không,
nhưng anh cảm nhận được qua từng câu chữ rằng cô quen với công việc viết lách. Có lẽ cô ấy đã trở thành một nhà văn thực sự, anh nghĩ vậy, và
chợt nhận ra suy nghĩ ấy không liên quan gì đến nội dung bản thảo.
Nội dung bản thảo ư...
Là những câu chữ như đánh vào cảm xúc của anh. Sayoko cũng giống anh, vẫn chưa thoát khỏi bóng ma của vụ án ngày ấy. Cô đã viết như thế này:
"Cho dù án tử hình đã được tuyên bố đi chăng nữa, chuyện đó đối với
thân nhân người bị hại không phải là sự chiến thắng hay gì khác. Họ
không có trong tay một thứ gì. Việc án tử được tuyên bố chỉ đơn thuần là những thủ tục cần thiết, những thủ tục đương nhiên đã chấm dứt. Cho dù
bản án tử hình được thực thi đi chăng nữa cũng vậy. Sự thật người thân
yêu của họ đã mất đi không bao giờ thay đổi, trái tim bị tổn thương cũng không thể lành lại. Vậy, cũng có người sẽ nói, có hay không án tử thì
cũng chẳng khác gì nhau. Lời nói đó hoàn toàn sai lầm. Nếu như kẻ thủ ác vẫn sống, thì nỗi day dứt "Tại sao kẻ đó được sống, tại sao kẻ đó lại
được ban cho quyền được sống" sẽ vẫn mãi ấm ức trong lòng thân nhân
người bị hại. Có người nói rằng nên xóa bỏ án tử hình, thay vào đó là tù chung thân. Người đó hoàn toàn không hiểu tâm trạng của thân nhân người bị hại. Án chung thân vẫn cho hung thủ được sống. Hung thủ vẫn sống ở
đâu đó trên thế gian này, ngày ngày ăn cơm, nói chuyện với ai đó, có khi còn tìm được một thú vui gì đấy. Những ý nghĩ này hành hạ tâm lý đau
đớn mà thân nhân người bị hại phải chịu. Một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh
rằng, án tử hình không hề cứu rỗi được gì đối với gia đình nạn nhân. Án
tử hình là điều đương nhiên đối với họ. Người ta vẫn thường nói "Chết để đền tội", nhưng gia đình nạn nhân không coi cái chết của hung thủ là
đền tội, cũng chẳng là gì hết. Với họ, cái chết của hung thủ chỉ là một
điểm mốc trong hành trình vượt qua nỗi đau mà thôi. Thậm chí, dù họ có
đi qua được điểm mốc ấy đi chăng nữa, họ cũng không nhìn thấy con đường
phía trước mở ra lối đi nào. Họ không biết họ phải vượt qua cái gì, phải hướng đến điều gì để tìm lại được hạnh phúc. Vậy, nếu ngay cả điểm mốc
ít ỏi ấy cũng mất đi, thì thân nhân người bị hại sẽ còn lại gì đây. Luận điểm xóa bỏ án tử hình chính là dẫn đến sự tình này."
Vừa đọc bản thảo, Nakahara vừa hiểu được, Sayoko cũng suy nghĩ giống
anh. Những gì được viết ra ở đây thể hiện chính xác và hoàn hảo cảm xúc
của bản thân anh. Cho đến trước khi đọc những dòng văn này, anh không
biết phải diễn tả cảm xúc của mình ra sao.
Án tử hình chỉ là một điểm mốc.
Quả đúng như vậy, anh gật gù. Khi anh còn tranh đấu cho phiên tòa,
anh đã coi án tử hình là mục tiêu. Để rồi đến khi nhận ra nó hoàn toàn
không phải là mục tiêu gì, anh đã tuyệt vọng như rơi vào một hố sâu thăm thẳm.
Nakahara tiếp tục đọc tập bản thảo. Trên đó, Sayoko không chỉ triển
khai luận điểm của bản thân, cô còn đưa ra một vài tình huống ví dụ cụ
thể, viết lại chuyện nghe được từ những người liên quan. Lẽ đương nhiên, vụ án mạng của Manami cũng được cô đề cập đến. Ở phần nội dung đó, một
cái tên bất ngờ xuất hiện, là Hirai Hajime, luật sư biện hộ cho
Hirukawa.
Em cũng tìm đến cả kẻ thù nghe họ kể chuyện à?
Họ hiểu luật sư của bị cáo không phải người xấu, dù vậy, đối với họ
lúc đó, anh ta cũng chính là người ủng hộ cho tội ác, là kẻ thù không
hơn không kém. Anh nhớ rõ cảm giác căm hận của mình đối với vị luật sư
khi anh ta lý giải những lời xin lỗi qua loa của Hirukawa thành "sự ăn
năn hối lỗi chân thành". Thêm vào đó, ánh mắt vô cảm luôn liếc sang một
bên của người luật sư cũng khiến anh thêm ác cảm.
Trên bản thảo có ghi lại phần trao đổi với luật sư Hirai, vì thế
Nakahara tiếp tục đọc. Anh vốn nghĩ Sayoko sẽ truy cứu theo góc nhìn
mang tâm ý đối địch, nhưng không phải, thậm chí giọng văn có phần trầm
lắng, bình tĩnh ghi lại diễn biến một loạt các phiên xét xử vụ án ngày
ấy.
Sayoko đã hỏi luật sư Hirai, anh ta nghĩ thế nào khi biết hai vợ
chồng cô quyết tâm theo đuổi đến cùng bản án tử hình. Câu trả lời của
luật sư Hirai là một câu trả lời dễ đoán.
"Trong ký ức của tôi, không có một gia đình nào không đòi hỏi bản án
tử hình đối với kẻ đã cướp đi người thân yêu của họ. Với tư cách một
luật sư, tôi coi mong muốn đó chính là điểm khởi đầu. Bị cáo lúc đó
chính là không còn đường lui, phía trước chỉ là vực thẳm. Vậy nên, tôi
còn có thể giúp bị cáo tìm đường lùi được chút nào hay chút ấy. Nếu phía sau có đường lùi, dù chỉ là một bước chân đi chăng nữa, tôi cũng muốn
đưa bị cáo về hướng đó. Đó chính là việc mà luật sư chúng tôi phải làm."
Sayoko cũng hỏi luật sư Hirai về chế độ tử hình. Anh ta đáp rằng, nếu có thể xóa bỏ thì nên xóa bỏ đi.
"Ý kiến có trọng lượng nhất trong luận điểm cho rằng cần xóa bỏ án tử hình là có thể bị cáo vô tình giết chết người, nhưng tôi lại nghĩ khác. Tôi đặt dấu chấm hỏi đối với chế độ tử hình bởi án tử hình không giải
quyết được gì cả. Có một vụ án A, hung thủ bị tử hình. Có một vụ án B,
hung thủ cũng bị tử hình. Mỗi vụ án là một câu chuyện khác nhau, thân
nhân người bị hại cũng khác nhau, vậy mà lại có chung một cái kết là tử
hình để chấm dứt câu chuyện. Tôi nghĩ mỗi vụ án nên có một cái kết riêng phù hợp với nó."
Phần bản thảo này khiến Nakahara suy nghĩ nhiều, bởi anh hiểu những lý lẽ mà Hirai chỉ ra.
Đúng như luật sư Hirai nói. Anh và vợ anh vật lộn với đau đớn bởi họ
không tìm được một cái kết trọn vẹn. Nhưng còn có thể có một cái kết nào khác đây. Liệu thay án tử bằng tù chung thân như một số người theo quan điểm xóa bỏ án tử hình nói có mang lại sự thay đổi nào khác không?
Sayoko cũng đặt ra câu hỏi này, đáp lại là lời nói "Chính tôi cũng không rõ" của luật sư Hirai.
Đoạn viết này kết thúc ở đó, tiếp theo là một khoảng cách tầm năm
dòng văn, rồi chuyển sang một đoạn viết kế tiếp. Nakahara cũng đã đọc
tiếp, nhưng phần sau không còn nhắc đến nội dung trao đổi với luật sư
Hirai nữa.
Nakahara lật lại trang có khoảng trống để cách, đọc lại nội dung cuộc trò chuyện với luật sư Hirai, anh vẫn không hiểu vì sao cô lại dừng
đoạn viết ở đó.
Có lẽ nào chính bản thân Sayoko đã có chút hoang mang, chính bản thân cô vẫn chưa thông suốt được ý tứ vốn định viết ở phần này chăng?
Anh gấp tập bản thảo lại như cũ, nằm ra giường nhìn lên trần nhà. Cứ
nhìn anh Michi em lại thấy khốn khổ - anh không thể quên được ánh mắt
Sayoko khi nói ra những lời đó.
Anh nghĩ lúc đó mình đã cố hết sức tìm kiếm một lời đáp thích hợp. Họ phải hoàn thành cái gì, phải làm gì để được cứu rỗi. Họ điên cuồng xoay sở với mọi thứ, lắng nghe mọi người, đấu tranh giành lấy đạo lý.
Nakahara ngồi dậy nhìn đồng hồ. Vẫn chưa quá muộn.
Anh lấy từ trong túi áo ngực tấm danh thiếp mới có được, vừa nhìn vừa bấm điện thoại.