Tranh Thiên Hạ

Chương 8 : Hỏi thăm một bữa cơm trưa

Ngày đăng: 01:11 20/04/20


Bên trong khoang thuyền của chiếc thuyền màu đen hết sức hoa lệ, màn che bằng tơ tằm màu tím, bàn khắc hoa văn, sàn trải thảm đỏ, trên vách treo những bức tranh sơn thủy. Nổi bật nhất là người đang tựa lưng vào chiếc ghế dựa mềm mại kế bên song cửa, bởi vì có hắn mà tất cả những thứ hoa lệ này đều hóa thành ung dung thanh nhã.



Phong Tức ngồi trên giường, hai bên là Chung Ly và Chung Viên, trên mặt đất có một người nam đang quỳ gối cúi đầu, sắc mờ tối trong khoang thuyền khiến khuôn mặt y không rõ ràng, chỉ như một cái bóng mơ hồ không thấy được, cũng không chạm vào được, tuy nhiên có thể đoán ra tuổi của y không lớn lắm.



Uống xong chén trà, Phong Tức mới nhàn nhã mở miệng: “Chuyện gì?”



Nam tử đang quỳ đáp: “Chuyện công tử dặn dò đã có manh mối, Vân công tử xin ý kiến của công tử, có cần trực tiếp hạ thủ hay không?”



“Ừm.”



Phong Tức đậy nắp chén trà, Chung Ly tiến lên nhận lấy, đặt xuống bên cạnh.



“Phát hiện được gì rồi?”.



“Trước mắt chỉ bám theo hành tung, chưa điều tra ra mục đích thật sự của bọn chúng.”



“Vậy à?” Phong Tức trầm giọng: “Tạm thời đừng ra tay, chỉ cần theo sát thôi.”



“Vâng.”



“Còn nữa, chuyện Huyền Tôn Lệnh bảo cậu ấy không cần để ý, ta tự có sắp xếp.”



“Vâng.”



“Đi đi.” Phong Tức phất tay.



“Thuộc hạ xin cáo lui.”



Nam nhân kia lui về sau, bên trong phòng chìm vào yên tĩnh, ánh mắt Phong Tức rơi vào nơi nào đó, hình như đang trầm tư, sau một lúc lâu mới quay lại hỏi Chung Ly: “Thu xếp ổn thỏa cho Phượng cô nương chưa?”.



“Bẩm công tử, Chung Viên đã bố trí cho Phượng cô nương ở trên khoang thuyền rồi ạ.” Chung Ly đáp.



“Ừ.” Phong Tức gật đầu, ngửa người ra sau dựa vào thành ghế, nhìn ra khoang thuyền, bây giờ đã là buổi chiều tối, hoàng hôn thâm trầm buông xuống.



Cửa bị đẩy ra, Chung Viên cầm một hộp ngọc màu đen tiến vào trong phòng, đặt lên bàn, mở hộp, trong nháy mắt ánh sáng tỏa ra chói lọi xua đi vẻ u ám trong phòng, trong hộp đựng một viên dạ minh châu to bằng nắm tay trẻ em.



Chung Ly gỡ chiếc đèn lồng trên vách xuống, bỏ viên dạ minh châu vào chính giữa, sau đó treo lên, viên dạ minh châu phát sáng lấp lánh như ban ngày.



“Sáng quá.”. Phong Tức quay lại liếc nhìn ngọn đèn, xoa xoa ấn đường, năm ngón tay khép lại che đi đôi mắt, cũng che luôn sắc thái âm u khó hiểu trong con ngươi hắn.



Chung Ly, Chung Viên nghe vậy nhìn nhau, từ khi theo công tử đến giờ, biết công tử ghét ánh nến hay ánh đèn tối tăm, bất luận là ở nhà hay bên ngoài đều dùng dạ minh châu làm đèn, hôm nay sao lại bảo sáng quá?



“Đốt một ngọn đèn, xong rồi lui xuống đi.”. Phong Tức buông bàn tay đang che trán, hai mắt khép hờ, vẻ mặt bình tĩnh ra lệnh.



“Vâng.” Chung Ly, Chung Viên đáp.



Một người gỡ dạ minh châu, một người thắp đèn dầu, sau đó rời đi, nhẹ nhàng khép cửa.



Đợi bước chân hai người đi xa, trong phòng chỉ còn lại ánh đèn dầu hiu hắt, bầu bạn với tiếng nước sông.



Phong Tức lẳng lặng nằm ngửa trên ghế, nhắm đôi hàng mi, khuôn mặt trầm tĩnh, phảng phất suy nghĩ như đang chìm vào ảo mộng.



Thời gian chầm chậm trôi, chỉ có gió sông thỉnh thoảng thổi qua ngọn đèn mờ nhạt, ánh sáng tản ra không gian tịch mịch, tựa như sợ kinh động đến người đang chợp mắt trên chiếc ghế.



Cũng không biết đã trải qua bao lâu, Phong Tức mở mắt, tầm nhìn chuyển đến mặt sông đen nhánh, ngọn đèn ngẫu nhiên xuất hiện bên bờ, rơi vào đôi mắt sâu không thấy đáy, khiến đôi mắt kia phát sáng như ngọc, lóe lên hàn quang thăm thẳm sắc bén.



“Huyền Tôn Lệnh!”. Ba chữ nặng nề thốt ra, ánh sáng lạnh lẽo thoáng lấp lánh, hắn khẽ giơ tay lên, nhìn lòng bàn tay mình rồi hơi nắm lại, cất tiếng thở dài: “Bạch Phong Tịch…”



Sáng sớm khi Chung Ly, Chung Viên đẩy cửa vào thì phát hiện công tử nhà họ vẫn đang nằm trên ghế dựa, áo mũ như cũ, hai người liếc mắt qua chiếc chăn đã trải trên giường, không hề có dấu vết xê dịch.



“Công tử.” Chung Ly khẽ gọi.



“Ừ.” Phong Tức thức dậy đáp lời, hơi duỗi người cứng nhắc, vẻ mặt hắn vô cùng bình thường, không thấy có chút mệt mỏi.



Chung Viên bước lên hầu hạ hắn súc miệng rửa mặt, chải đầu thay quần áo, sau khi hoàn tất mọi thứ, Chung Ly đã bày xong bữa sáng lên bàn, một ly nước trong, một bát cháo, một đĩa sủi cảo, dĩ nhiên những thứ này chất lượng hơn là số lượng.



Nước trong ly được lấy từ “Suối Thanh Thai” – Thiên hạ đệ nhất suối của Bạch Phong Quốc, cháo được nấu từ loại gạo đặc sản “Trân Châu Hương” trộn với tổ yến, ngân nhĩ, bạch liên hầm chín của Hắc Phong Quốc, còn đĩa sủi cảo có nhân được làm từ lõi cải non trắng được xưng là “Bạch Ngọc Phiến” của Hoa Quốc. Phong Tức vốn không thích ăn thịt.



Phong Tức uống ly nước trước, sau đó ăn chút cháo, rồi gắp miếng sủi cảo, có điều vừa đến bên môi, hắn liền buông đôi đũa xuống, rốt cuộc chỉ ăn được chén cháo.



“Hấp hơi lâu, lõi cải quá nhừ, lần sau phải để ý lửa.” Hắn liếc nhìn đĩa sủi cảo nói.



“Dạ.” Chung Ly dọn chén đĩa.



Phong Tức đứng dậy đi tới trước bàn đọc sách lấy giấy bút, trải giấy trắng lên bàn, hạ bút viết, động tác lưu loát liền mạch, chỉ chốc lát đã viết xong hai phong thư.



“Chung Viên, phái hai người chia nhau gửi những bức thư này.”. Hắn dán kín hai phong thư rồi đưa cho Chung Viên.



“Dạ, công tử.”. Chung Viên nhận lấy thư, đi ra ngoài cửa, còn Chung Ly bưng trà bước vào.



Phong Tức nhận lấy chén trà uống một hớp, sau đó buông xuống, ngẩng đầu lên căn dặn: “Chung Ly, chuẩn bị đi, sáng mai thuyền cập bến, chúng ta đổi sang đi bộ, thẳng đến Hoa Quốc.



“Dạ, công tử.”. Chung Ly cúi đầu đáp, tựa như nhớ tới việc gì đó, quay đầu hỏi Phong Tức. “Công tử, chẳng phải ngài đã hẹn gặp Tịch cô nương ở Hoàng Quốc sao?”.



Phong Tức nghe vậy cười giễu: “Nếu nữ nhân kia đồng ý với người khác chuyện gì chắc chắn sẽ làm được, còn đối với ta, cô ấy nhất định không làm, huống chi ngày ấy ngươi có nghe thấy nàng nói đồng ý chưa?”.



Chung Ly cẩn thận suy nghĩ, lắc đầu, quả thật không nghe thấy chính miệng Phong Tịch hứa chắc chắn.



“Bởi vậy, chúng ta phải đi Hoa Quốc.”. Phong Tức nâng chén trà lên, mở nắp ra, hơi nóng phảng phất tràn ngập gương mặt hắn. Giờ khắc này ánh mắt hắn cũng thoáng như sương mù: “Nữ nhân kia thật sự nhường Huyền Tôn Lệnh cho thế tử nước Hoàng! Nàng thật là…”



Lời cuối ngập ngừng không nói ra, khẩu khí làm người khác khó đoán.
“Nếu như tỷ thua thì biết làm sao? Chẳng lẽ bán đệ thật?”. Hàn Phác dĩ nhiên không tin.



“Sao thế được!” Phong Tịch kiên quyết bác bỏ lời cậu.



“Hứ! Coi như tỷ cũng có lương tâm.”. Hàn Phác hừ một tiếng.



Ai ngờ nàng lại nói như vầy:.



“Phác nhi, đệ chưa biết tỷ tỷ ta sao rồi.”. Phong Tịch lùi lại về phía sau, gật gù đắc ý nói: “Ngày xưa ta tung hoành ngang dọc các sòng bạc gần mười năm, có bao giờ thua đâu, với bản lĩnh của ta, muốn đại là đại, muốn tiểu là tiểu, không có chuyện đánh thua!”. Nàng nói rất tự hào.



“Tỷ…”. Hàn Phác vừa nghe xong thì tức giận trừng mắt líu lưỡi, hất đầu xoay người đi, vừa đi vừa cả giận: “Đệ không muốn theo tỷ nữa! Đệ không cũng không nhận tỷ là tỷ tỷ nữa! Không bao giờ… để ý đến tỷ nữa!”



“Phác nhi! Phác nhi!”. Phong Tịch nhìn dáng vẻ giận dỗi của cậu thì vội vàng kéo lại, ôn nhu trấn an: “Phác nhi, yên tâm đi, tỷ tỷ quyết không thua để mất đệ đâu, đây chẳng qua là tỷ đùa chút thôi, thật sự sẽ không thua đâu! Nếu có thua thì ta cũng cướp đệ về! Nên biết rằng với võ công của ta, ngay cả con hồ ly đen kia có tới cũng cướp không lại ta!”



“Hừ!”. Hàn Phác tuy bị kéo tay nhưng vẫn xoay mặt qua chỗ khác, phớt lờ nàng.



“Phác nhi ngoan, tỷ tỷ hứa với đệ, mai mốt không bao giờ mang đệ đi cược bạc nữa!” Phong Tịch bất đắc dĩ chỉ biết dùng những lời tốt đẹp để xoa dịu cậu.



“Đây là tỷ nói đó nhé, nói thì phải giữ lời! Sau này không được mang đệ đánh cược nữa!”.



“Ừ! Ta sẽ giữ lời!”. Phong Tịch gật đầu.



“Sau này bất luận thế nào cũng không được mang đệ ra đánh bạc! Không được bán đệ đi! Không được chán ghét đệ! Cũng không cho… không cho tỷ vứt bỏ đệ!”.



Nói xong câu cuối Hàn Phác bỗng khóc thút thít, vành mắt đỏ hoe, nước mắt không ngừng chảy xuống. Một nỗi sợ hãi vồ lấy cậu, cậu sợ mình bị bỏ rơi, sợ phải lẻ loi một mình như trong đêm hỏa hoạn hôm đó, dù la hét rách cả họng cũng không ai trả lời!



“Được, được, được! Ta đồng ý hết với đệ!”. Phong Tịch thấy cậu khóc thì không khỏi thở dài, ôm cậu vào lòng, không còn ý muốn đùa giỡn nữa.



Thật ra cậu vẫn chỉ là một đứa bé vốn đang nằm trong lòng vờ làm nũng cha mẹ, thế nhưng số phận đẩy đưa, không bao giờ cậu có cơ hội làm điều đó nữa. Những năm tháng sau này chỉ còn phong ba giang hồ làm bạn, đi khắp bốn phương sống cuộc đời còn lại của mình. Mà nàng lại là một khúc gỗ duy nhất trên dòng sông mà cậu có thể bám vào, đến khi khúc gỗ ấy cũng muốn bỏ cậu đi, một kẻ vốn đang khủng hoảng vì tan cửa nát nhà như cậu sẽ không thể chịu nổi đả kích to lớn.



“Phác nhi, tỷ tỷ sẽ không bỏ đệ, tỷ tỷ sẽ chăm sóc đệ cho đến khi đệ có thể tự mình bay giữa trời.”. Nàng bất tri bất giác nói.



“Tỷ hứa rồi đó, tỷ không được đổi ý!”. Hai tay cậu ôm chặt lấy Phong Tịch, chỉ sợ cái ôm ấm áp này sẽ đột nhiên biến mất.



Ánh mắt của người qua lại đều tỏ ra kinh ngạc khi nhìn thấy một lớn một nhỏ nương tựa nhau giữa đường, khiến cho họ cảm thán thở dài, sau đó liền quay đầu đi, không đành lòng nhìn tiếp nữa.



Hai người kia tựa như hai cánh chim hồng nhạn lạc đàn, cô độc bay qua vạn lý mới tìm thấy nhau, làm người ta không nỡ quấy rầy.



“Được rồi, đi ăn cơm trước nào!”. Phong Tịch buông Hàn Phác ra, lau nước mắt trên mặt cậu: “Lớn rồi mà còn khóc, nhớ năm xưa khi tỷ ra ngoài cũng chưa từng khóc, người khóc là cha tỷ đó.”



“Dạ.” Hàn Phác ngượng ngùng dùng tay áo lau nước mắt trên mặt.



Hai người muốn tìm một quán trọ để ăn cơm thì phía trước có một đám người đang đến. Từ già trẻ đến lớn bé đều ngồi trên xe bò, có người khiêng sọt, vác bao lớn bao nhỏ trên lưng, sắc mặt ai cũng vội vã tái vàng, khắp thân đầy gió bụi. Mọi người liền nhường đường cho họ, Phong Tịch và Hàn Phác cũng tránh sang một bên, nhìn nhóm người này xuyên qua đám đông, thẳng về hướng cửa nam thành Thái.



“Ôi! Lại thêm người chạy nạn nữa rồi!”. Bên tai có người than thở.



“Lão bá, những người này từ đâu đến đây? Bọn họ đang đi đâu?”. Phong Tịch hỏi một lão già đứng bên đường.



“Đại khái là cô nương đã lâu rồi chưa vào thành đúng không?”. Lão già đánh giá Phong Tịch, có chút ngạc nhiên khi thấy dung nhan phi phàm của nàng: “Đám người này đều đến từ thành Dị, thành Giám, Vương phái đại tướng quân Thác Bát Hoằng tấn công nước Bạch, họ chạy nạn đến đây.”



“Tấn công nước Bạch? Chuyện này xảy ra khi nào?”. Phong Tịch nghe vậy không khỏi cả kinh, mấy ngày nay đều mang Hàn Phác đi đường núi, chưa hề vào thành, ngay cả tin tức quan trọng thế nàng cũng chưa nghe tới.



“Đó là chuyện khoảng một tháng trước rồi.”. Lão già cảm thán: “Chẳng biết Huyền Tôn Lệnh này sẽ lấy thêm bao nhiêu mạng người nữa đây!”



“Huyền Tôn Lệnh? Nam Vương xuất binh công thành là vì Huyền Tôn Lệnh đang ở nước Bạch ư?”. Ánh sáng trong mắt Phong Tịch lạnh dần.



“Đúng vậy.”. Lão già như trải qua tang thương, âm thầm đau xót: “Huyền Tôn Lệnh ơi Huyền Tôn Lệnh! Vì nó mà không biết bao nhiêu người chết!”



“Chẳng qua chỉ là cái cớ mà thôi.”. Phong Tịch tự mình than thở.



Huyền Tôn Lệnh xuất hiện ở Bạch Quốc rồi mất tung tích, trừ nàng ra thì chẳng còn ai biết lệnh đã rơi vào tay thế tử nước Hoàng. Những người khác đều cho rằng Bạch Vương đã đoạt được, mà Nam Vương lấy cái cớ Huyền Tôn Lệnh mà tấn công nước Bạch, mục đích chính của y là nhân cơ hội này chiếm luôn hai thành trì của Bạch Quốc.



“Đến đây là an toàn rồi, họ còn muốn đi đâu nữa?”. Hàn Phác thắc mắc trong lòng.



Nếu đã tránh họa thì thành Thái cách thành Dị, thành Giám đến mấy thành, đã sớm tránh khỏi chiến tranh, không hiểu vì sao những người đó vẫn tiếp tục đi thẳng về phía trước đến thành Nhĩ, cũng là một tòa biên thành.



“Bọn họ muốn đi Hoàng Quốc chứ sao.”. Lão già nhìn về cuối con đường nói, cửa nam bên đó, ra khỏi cửa nam là đường thông đến thành Nhĩ: “Bạch, Nam hai nước chiến tranh liên miên, lực lượng ngang nhau, mỗi khi khai chiến không có bên nào chiếm ưu thế. Những người ngồi ở vương điện thì không nói, người khổ chỉ toàn là con dân bách tính, hỗn loạn bất ổn, gia đình người thân khó bảo toàn. Nước Hoàng lại là nước lớn trong sáu nước chư hầu, ít có chiến tranh, vả lại đều thu xếp ổn thỏa cho hết thảy những ai chạy nạn từ quốc gia khác đến, đối với những người dân này mà nói, nước Hoàng là chốn thiên đường.”



“Vậy sao bọn họ không đến Bạch Phong Quốc, Hoa Quốc, Hắc Phong Quốc?”. Hàn Phác hỏi: “Hoa Quốc không phải là nước giàu nhất trong sáu nước sao?”



“Ôi, tiểu huynh đệ, Hoa Quốc xa quá.”. Lão già mỉm cười nhìn Hàn Phác: “Đối với dân chạy nạn nước Nam, Bạch Phong Quốc, Hoa Quốc thật sự rất xa, huống chi Hoàng Quốc trước mặt cũng đâu thua kém gì hai nước đấy, đương nhiên họ sẽ đến nơi gần nhất. Về phần dân chạy nạn nước Bạch, có lẽ họ đang chạy đến Hắc Phong Quốc.”



“À.”. Hàn Phác gật đầu, quay lại nhìn Phong Tịch, phát hiện ra ánh mắt cùa nàng đang nhìn gì đó phía trước.



Đó là một bé gái khoảng sáu, bảy tuổi trong đám đông chạy nạn, có vẻ rất đói, chỉ vào hàng bánh nướng bên đường mà gào khóc, người mẹ uể oải tiều tụy của nó tìm mọi cách dỗ dành nhưng nó vẫn không ngừng, bà đành bất đắc dĩ đến ăn xin chủ quán, lại bị chủ quán đẩy ra, ngã nhào trên đất.



Ánh mắt lão già cũng nhìn qua đằng kia, chỉ thở dài thật sâu: “Mỗi ngày đều có những người như vậy đấy, nếu lão Hách quê mùa này còn bố thí cho họ nữa thì chính lão cũng không có cơm để ăn. Ai! Kỳ thật dân chúng bình thường chỉ mong có cơm ăn mà thôi, đâu quan tâm đến chuyện Huyền Tôn Lệnh quý hơn hay là Huyền Mặc Lệnh quý hơn.”



Phong Tịch đi qua, đỡ người đàn bà trên mặt đất dậy, móc từ trong túi ra mấy tấm ngân diệp đưa cho bà ta.



“Đa tạ cô nương! Đa tạ cô nương!”. Người đàn bà vừa thấy ngân diệp lớn thế này, cho rằng mình đã gặp được thần tiên, luôn mồm cảm tạ.



Phong Tịch lắc đầu, nụ cười nhàn nhạt, không còn nét sáng lạn như trước, quay lại nắm tay Hàn Phác: “Phác nhi, chúng ta đi ăn cơm.”



Nàng ngẩng đầu nhìn bầu trời vẫn trong xanh, ánh dương quang vẫn long lanh như trước.



“Kỳ thật mọi chuyện rất đơn giản, dân chúng chỉ mong có cơm ăn mà thôi… chỉ mong có cơm ăn mà thôi.”



Phong Tịch thì thào thở dài, mang theo nỗi buồn vô cớ, cũng dường như đã hiểu ra chuyện gì.